Sao Thái âm thủ mệnh tại cung Tỵ lạc hãm, cung Thiên di có sao Thiên cơ thế bình, cung Quan lộc có sao Thái dương thế bình và sao Thiên lương thế địa. Sao Thiên cơ nhập cung Thiên di, cá tính hấp tấp, hiếu động, thích hợp với những công việc có sự thay đổi hoặc hoạt động nhiều, nếu ở lại quê hương sẽ dễ xảy ra tranh chấp với người khác, những việc thị phi không ngừng xảy ra, càng đi xa thì càng thuận lợi, đạt được thành công ở nhiều phương diện. Hai sao Thái dương, Thiên cơ nhập cung Quan lộc, thích hợp với những công việc lãnh đạo, sự nghiệp ngày một phát triển, có thể biểu hiện tốt nhất ở những công việc hoạt động trí óc, dễ nổi tiếng, đòi hỏi sự tin tưởng cao.
BỐ CỤC SAO
Sao Thái âm ở cung Tỵ là độc tọa lạc hãm, mặt trăng vào giờ Tỵ (buổi sáng khoảng từ 9 giờ tới 11 giờ) không còn ánh sáng. Vì bản thân sao Thái âm không có lực nên kết hợp với tất cả các sao gia hội Tam phương Tứ chính của cung Mệnh cần phải nghiên cứu thêm. Ưa được 6 sát tinh trợ giúp, có thể tăng thêm lực lượng.
VẬN MỆNH CƠ BẢN
Sao Thái âm lạc hãm tại cung Tỵ không nên kết hôn với những người phụ nữ trực hệ gần, bất luận có được cát tinh gia hội hay không thì ngay từ lúc còn nhỏ cũng phải chịu vất vả, sức khỏe ốm yếu, hoặc thất học, hoặc chịu đói khổ, bất hạnh, nếu càng đi xa thì càng có cơ phát triển.
Chủ luôn có tâm niệm muốn giúp người, hợp với làm các nghề về công nhân viên chức hay dạy học, không thuận lợi trong làm ăn buôn bán. Nam giỏi mưu lược, giỏi đưa ra kế
hoạch, có nhân duyên đặc biệt, nữ thường kết hôn muộn, nếu ở gần với sát tinh, đề phòng tình cảm dễ rạn vỡ.
VẬN MỆNH CỦA CÁC NĂM SINH KHÁC NHAU
Người sinh năm Giáp: Cung Quan lộc có sao Thái dương hóa kỵ. Không có lợi khi kết hôn với với nam giới họ hàng gần, có ảnh hưởng xấu đến mắt, hay bị giật mình, gặp trắc trở, gặp nhiều sóng gió trong công việc, quan hệ với bố mẹ không được gắn bó, dễ kết hôn muộn.
Người sinh vào năm Ất: Cung Thiên di có sao Thiên cơ hóa lộc, cung Quan lộc có sao Thiên lương hóa quyền, cung Mệnh có sao Thái âm hóa kỵ. Sao Thiên cơ hóa lộc nhập cung Thiên di, hoàn cảnh dễ thay đổi, có cơ hội đi xa hoặc định cư ở nước ngoài.
Sao Thiên lương hóa quyền nhập vào cung Quan lộc, nhìn mọi việc bằng con mắt chủ quan, tính cách thoải mái, hoành hành bá đạo nhưng coi trọng lý lẽ, trong lúc nguy hiểm có thể chuyển dữ hóa lành, thuận lợi khỉ làm công nhân viên chức, thi cử có khả năng được điểm cao.
Cung Mệnh có sao Thái âm lạc hãm hóa kỵ, không có lợi khi kết hôn với nữ giới họ gần, dễ bị mất của, chịu thiệt, hoặc trong lòng có chuyện khó nói không biết tâm sự cùng ai, luôn phải lo lắng chuyện tiền nong, nợ nần, tha hương.
Người sinh vào năm Bính: Cung Thiên di sao Thiên cơ hóa quyền, chủ đi xa. Những người sinh năm Bính Tỵ, Bính Dậu, Bính Dần, sao Thiên mã đồng cung, có cơ hội xuất ngoại.
Người sinh vào năm Bính Hợi, Bính Mão, Bính Mùi, Mậu Hợi, Mậu Mão, Mậu Mùi, Nhâm Tý, Nhâm Dậu, Nhâm Sửu; Sao Lộc tồn, Thiên mã cùng tọa cung Mệnh hoặc cung Thiên di, là mệnh cách Lộc mã giao trì, có thể phát tài trong hoàn cảnh có nhiều biến động, càng biến động càng phát tài.
Người sinh năm Bính, Đinh: Hai quý tinh lần lượt hội chiếu cung Mệnh ở hai cung Quan lộc và Thiên di, chủ văn hay chữ tốt, phú quý giàu sang.
Người sinh vào năm Đinh: Cung Mệnh có sao Thái âm lạc hãm hóa lộc, cung Thiên di có sao Thiên cơ hóa khoa, cung Mệnh có sao Thái âm hóa lộc; mệnh nam có cơ hội thăng tiến, phát triển, nhưng quá trình khó khăn vất vả, vấn đề tình cảm dễ gặp trắc trở.
Cung Thiên di có sao Thiên cơ hóa khoa, thường có những chuyện biến động, phát tài muộn, danh lợi đều tốt.
Người sinh năm Mậu: Cung Mệnh có sao Thái âm hóa quyền, cung Thiên di có sao Thiên cơ hóa kỵ. Cung Mệnh có sao Thái âm lạc hãm hóa quyền, tiếng thơm bay xa nhưng không có phúc hưởng thụ. Cung Thiên di có sao Thiên cơ hóa kỵ, dễ gặp tai nạn giao thông, sự nghiệp và tình cảm gặp phải nhiều sóng gió.
Người sinh năm Kỷ: Cung Quan lộc có sao Thiên lương hóa khoa, có công danh trong sự nghiệp, thích hợp làm về các công việc văn thư giấy tờ.
Người sinh năm Canh: Cung Quan lộc có sao Thái dương hóa lộc, cung Mệnh có sao Thái dương hóa khoa, không có sát tinh đồng cung hoặc xung phá, là mệnh cách Khoa danh hội lộc, có tài hoa, có danh vọng. Bôn ba khắp nơi, bận rộn, gặp nhiều trắc trở nhưng đạt được nhiều thành tựu trong sự nghiệp. Chú trọng ngoại hình nhưng coi nhẹ nội tâm, có nữ quý nhân bên cạnh, thích cất giữ tiền của, hoặc kiếm nhiều tiền về để cất giữ, cần phải cẩn thận gặp họa đổ máu.
Người sinh năm Tân: Cung Quan lộc có sao Thái dương hóa quyền. Bôn ba khắp nơi, bận rộn, có chí lớn xây dựng sự nghiệp, phàm là những việc bản thân thích thì sẽ tìm mọi cách để làm được.
Người sinh năm Nhâm: Cung Quan lộc có sao Thiên lương hóa lộc. Được người đi trước hoặc cấp trên coi trọng, giúp đỡ, dễ bị những vật ngoài thân như tiền tài làm cho gặp nhiều trắc trở, khốn đốn, đây là gánh nặng tinh thần lớn nhất của họ.
Người sinh năm Quý: Cung Mệnh có sao Thái âm hóa khoa. Coi trọng hình thức bề ngoài, xem nhẹ nội tâm bên trong, có nữ quý nhân phù trợ, thích tích trữ tiền của hoặc kiếm tiền về cất giữ.
VẬN MỆNH CỦA CÁC GIỜ SINH KHÁC NHAU
Những người sinh tháng 2, 6, 10, hai sao Tả phù và Hữu bật lần lượt hội chiếu tại cung Mệnh, cung Tài bạch, Quan lộc, nhiều lực lượng trợ giúp.
Những người sinh vào giờ Tý, Dần, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Hợi, hai sao Địa không và Địa kiếp cùng tọa thủ hoặc cùng giáp (các cát tinh đóng hai cung bên cạnh cung Mệnh gọi là giáp) với cung Mệnh, hoặc Tam phương Tứ chính hội chiếu tại cung Mệnh, là mệnh cách Mệnh lý phùng không, hoặc Không kiếp giáp mệnh, chủ nhiều tai họa.
Những người sinh vào giờ Ty và Mùi năm Ất, cung Mệnh có sao Thái âm hóa kỵ, lại gặp hai sát tinh Địa không và Địa kiếp, là mệnh cách Không Kiếp giáp kỵ, càng không tốt lành, cả đời lênh đênh như con thuyền trên biển và thường có những phe cánh bên ngoài nói lời gièm pha