Các bước dự đoán
- Xác nhận lại ngày giờ sinh cho chuẩn xác.
- Sắp xếp Tứ trụ chính xác, gồm cả mười thần thấu rõ và tàng, kể cả thần, sát. Sau đó sắp xếp đại vận, lấy số đại vận, mười thần của can vận (nếu đoán sát việc cho một năm nào đó, còn cần sắp xếp cả tiểu vận, lưu niên).
- Xem ngũ hành của nhật can sinh vào tháng vượng hay tháng suy.
- Xem nhật can có được khí của các địa chi khác không.
- Xem nhật can có được ấn tinh của can chi sinh phù không.
- Xem nhật can có được các can khác giúp thêm không.
- Xem các thiên can khác sinh vào tháng vượng hay tháng suy. Thông kê lại để ước lượng xem thân vượng hay thân nhược.
- Tìm dụng thần và kỵ thần.
- Xác định các cách cục: giàu sang, nghèo hèn, cát hung, thọ yểu.
- Xác định các vận: hưng, suy, cát, hung và phân biệt với các vận bình thường.
- Xác định năm tốt nhất, xấu nhất trong cuộc đời và ứng vào việc nào, người nào.
- Kết hợp xem luôn cả tính tình, tướng mạo, nhân cách, quan tài, sự nghiệp, bệnh tật, hôn nhân, con cái, v.v..
Sắp xếp Tứ trụ chính xác là nội dung cơ bản của dự đoán. Viết ngày giờ sinh xong, ghi rõ các can tàng trong địa chi. Sau đó căn cứ vào can ngày, xác định mười thần của các thiên can lộ ra và cả các can tàng. Số bắt đầu của đại vận có thể kết hợp tính lúc tra can chi, theo quy tắc đếm thuận hay đếm ngược, cứ ba ngày tính thành một năm để tính các đại vận. Sau khi xếp xong đại vận, ghi mười thần tương ứng với can vận, và cứ mươi năm là một đại vận.
Cuối cùng theo bảng thần, sát, ghi tên gọi tắt các thần sát lên góc phải phía trên để khi dự đoán có thể nhìn thấy ngay thần, sát ở trụ nào, xung khắc gần hay xa, mức độ ảnh hưởng của nó. Đồng thời cũng thấy được thần, sát gặp lục thân của cung nào, người đó được hưởng âm phúc của ai hay hung sát sẽ gây tác hại cho ai. Nếu cần phải xếp tiểu vận, lưu niên thì ghi chung xuống phía dưới của đại vận đó để dễ thấy rõ mức độ chúng hình xung khắc hợp với đại vận. Xếp xong Tứ trụ bắt đầu thẩm tra lại lực lượng vượng suy của các ngũ hành.
Đầu tiên xem ngũ hành của nhật can sinh vào tháng vượng hay nhược để biết nhật can được lệnh hay không. Phân lệnh tháng là trường sinh, mộc dục, quan đái, lâm quan, đế vượng đều là nhật can được lệnh tháng.
Tiếp đến xem nhật can trong các chi khác là ở vào đất trường sinh, lộc, kình dương hay mộ, kho, có khí có gốc là đắc địa. Lại xem nhật can trong các thiên can và địa chi có được chính ấn, thiên ấn sinh phù hay không, có ấn tinh là được sinh.
Xem nhật can trong các thiên can khác có ngang vai, kiếp tài để giúp thân không. Có sao tỉ kiếp là được trợ giúp. Tổng hợp các yếu tố: được lệnh, đắc địa, được sinh, được trợ giúp, tùy theo mức độ sinh, khắc, hình hợp xung hại, xa gần để có sự tăng giảm hợp lý. Sau đó lại tổng hợp các yếu tố: quan sát khắc nhật can; chính tài thiên tài làm hao tổn nhật can; thực- thương làm xì hơi nhật can, tùy theo mức độ sinh khắc, hình hợp xung hại, xa gần để tăng giảm. So sánh hai bên, nếu lực sinh phù nhặt can càng lớn là thân vượng. Ngược lại lực khắc, xì hơi, làm hao tổn lớn hơn là thân nhược.
Thân vượng nên chọn cái khắc, xì hơi, làm hao tổn thân làm dụng thần; lấy cái sinh thần, giúp thân làm kỵ thần. Thân nhược thì ngược lại. Cách chọn dụng thần và kỵ thần là phải căn cứ vào sự chọn lựa hợp lý các tổ hợp của Tứ trụ. Chủ yếu lấy hỉ, kị của tài quan làm chuẩn.
Lấy dụng thần có lực, có tình, kỵ thần có chế áp, có hóa hay không để xác định giới hạn giàu sang, nghèo hèn, cát hung, thọ yểu, xác định các thứ lớp mà mệnh vận người đoán có thể đạt được.
Lại xét xem dụng thần có đến ngôi hay không, bị khắc hay không, có cứu hay không có cứu để định ra giới hạn giữa các đại vận tốt, xấu và các vận thường, xác định vận tốt nhất, vận xấu nhất, vận bình thường vào các đoạn tuổi nào của người dự đoán.
Trong vận tốt lại cần làm rõ những năm nào tốt nhất, những năm nào tốt vừa phải, năm nào kém hơn; trong vận xấu cũng cần làm rõ những năm nào xấu nhất, năm nào tạm đỡ và năm nào gặp hung hóa cát, trong vận bình thường cũng cần phân biệt rõ năm nào thuận, năm nào bình thường, năm nào trắc trở. Tổ hợp của đại vận ở thời kỳ tốt nhất là tốt đến mức nào, căn cứ vào mười thần thì ứng vào việc gì là chính.
Ngược lại tổ hợp của đại vận ở thời kỳ, xấu nhất là xấu đến mức nào, ứng vào việc gì là chính, ứng vào mình hay ứng vào người thân bị khắc, hay đều bị sinh khắc hoặc đều bị xung hợp.
Cuối cùng dự đoán ra nội dung bị sinh khắc hay bị xung hợp.
Ví dụ ngũ hành bị xung hợp hay bị sinh khắc ứng vào bệnh tật hay công tác, lục thân, buôn bán, v.v…; mười thần bị xung hợp hay bị sinh khắc ứng vào hôn nhân hay tài vận, quan vận, ốm đau, hay thọ yểu, v.v.. Cũng có sách cùng bàn chung ngũ hành với mười thần. Như khi kiêu thần đoạt thực thần (mười thần sinh khắc xung hợp), năm đoạt thực thần vừa ứng vào ốm đau, cụng có thể ứng vào công tác, buôn bán, cung mà lục thân ứng vào bị ốm đau, thậm chí ảnh hưởng đến tuổi thọ của mình hoặc người thân.
Như thế là địa chi năm đó tương xung với địa chi trong Tứ trụ, vì thế mà thành kỵ thần. Tháng tương xung thì mình hoặc là lục thân ứng với cung bị xung nhất định sẽ gặp nạn. Lúc kết thúc dự đoán hoặc trước khi dự đoán đều nên kết hợp giữa mệnh cục và đại vận, tổng hợp cân bằng các thần, sát để bàn về tính cách của người đến đoán. Căn cứ vào Tứ trụ sinh hóa có tình hay không để đoán người đó là người có tình nghĩa đến đâu. Từ tính hàn ôn thấp táo trong Tứ trụ cũng có thể thấy được đó là người nhiệt tình, hòa hợp với mọi người hay là người lãnh đạm, xa lánh mọi người. Qua Tứ trụ cương nhu, trung chính hay nhu nhược, thiên khô (tức Tứ trụ có nhiều tổ hợp xấu) có thể biết được người đó là quân tử hay tiểu nhân. Cho dù là người đoán hay độc giả đều cần có sự hiểu biết căn bản đối với người được đoán, bao gồm bản thân họ và con cái họ, như thế sẽ có ích cho việc kết bạn, giao thiệp, sẽ gần người tốt, tránh xa kẻ xấu, giúp cho sự chọn lựa và phát triển nghề nghiệp được tốt hoặc tự nhắc mình cảnh giác đúng lúc, hoặc có thái độ đối xử với người được dự đoán cho hợp tình hợp lý.
Các ví dụ dự đoán của Thiệu Vĩ Hoa
Mục này chọn một số dự đoán thực của Thiệu Vĩ Hoa từ nửa cuối năm 1993 về người thật việc thật. Trong các ví dụ này, ngoài một số người địa vị cao, đang sông không tiện nói ra, còn đại bộ phận là có tên tuổi cụ thể. Đương nhiên cũng chọn những Tứ trụ bình thường để dễ so sánh. Ở mục này cũng muốn đưa ra các cách chọn dụng thần làm chính và có phân tích cụ thể các vận tốt, xấu. Hy vọng rằng đó là con đường ngắn nhất đối với người mới học và các độc giả để nhập môn. Các trường hợp biến đổi phức tạp cũng đã giải thích rõ với tính điển hình, độc giả có thể dựa vào đó để suy luận cho các trường hợp khác.
Ví dụ 1. Dụng thần là kiêu thần (nữ).
Mệnh nữ này sinh ngày bính tháng sửu ở thời kỳ “dưỡng” nên không được lệnh, cũng không được trợ giúp, mang bính được trường sinh dần mộc của chi năm là đắc địa, lại có gốc, hơn nữa còn được dư khí của ất mộc trong thìn, giáp mộc trong hợi sinh phù, nhưng cuối cùng vẫn là thân nhược.
Ngược lại, sao khắc chế là quan sát vừa hỗn tạp vừa chung sức với thương quan là kỵ thần. Thông thường vượng quan kị gặp thất sát hỗn tạp, còn kị gặp thương khắc quan. Tuy nhiên dụng thần mộc có lực, song nguy cơ phục bốn bề. Tuy quan nhiều mừng gặp được thương, thương quan có thể chế ngự quan tinh, nhưng vì thương nhược quan vượng nên chế ngự không nổi,cho nên tổ hợp của nó là tín hiệu nguy hiểm về họa lao tù.
Mệnh này thân nhược, quan sát nhiều, mừng có ấn tinh làm thông quan dụng thần, hóa quan sát sinh ấn, nên dụng thần là bản khí trong dần mộc tức giáp mộc là kiêu thần. Giáp mộc sợ nhất canh kim trong thân khắc, cho nên năm thân là năm kim vượng sẽ không thuận.
Đại vận thời niên thiếu là sát vận đứng đầu vượng, quan lại hỗn tạp nên là kị vận. Song nhờ có kiêu thần trong trụ hóa mà sinh thân, cho nên chỉ có một số năm sức khỏe yếu, bệnh nhiều. Vận chính tài gia đình có nạn. Vận thiên tài canh tuất, tuất là mộ kho của bính, thân nhược gặp thiên tài khắc kiêu thần nên hiu niên nhâm thân (năm 1992), là những năm tháng canh kim vượng, khắc trực tiếp dụng thần giáp mộc trong dần nên vào tù. Tai họa đó là vì thân nhược không gánh nổi tài. Vì muốn phát tài to, buôn lậu máy móc nên bị bắt giam. O vận này thìn tuất hai tương xung nên không phải chỉ có một tai họa, khi cung chồng bị xung thì còn xảy ra sắp ly hôn nữa, ứng vào năm 1994 là năm tuất.
Năm 1994 bắt đầu lưu niên, thiên can sinh thân, vượng thân, tuy đại vận không hay lắm nhưng cuộc sông còn được. Năm đó vừa ra tù thì liền đến thầy Thiệu Vĩ Hoa xin lời khuyên. Thầy Hoa nói thẳng rằng, cô ta vì của cải mà ngồi tù, nhưng nhờ còn có lợi thế nên đừng tham giàu thì sau này sẽ còn có vận may.
Đặc điểm của ví dụ này là: bính hỏa mùa đông có mộc sinh vượng cho nên người đó nhiệt tình và hướng ngoại. Thân tuy nhược nhưng ấn tinh vượng mà có lực, không mất đi cái quý của nó. Chỉ tiếc là vận trình không có cứu và còn chờ vượt qua đại vận thương thực thì sẽ phú quý của các vận sau mới hanh thông.
Qua ví dụ này có thể thấy, nếu mù quáng cầu tài thì lúc được của cũng là lúc tai họa ập đến. Nếu cầu tài nhưng đồng tiền không chính đáng thì tai họa đã phục sẵn tròng đó. Người đàn bà này liên tục mấy năm dụng thần lâm vượng tướng nên tiền của đến rất nhanh, có mấy biệt thự, tiền vốn rất nhiều. Nhưng bại vận vừa đến là toàn bộ bị tịch thu và bị phạt, một khoản tiền lớn để trong nhà còn bị người giúp việc lấy trộm, rồi trốn mất, rốt cuộc trắng tay. Nên cầu tài cần hợp đạo lý thì được của mới bền. Như thế mới gọi là hiểu được phương thuật, hiểu được mệnh vận. Lúc đáng được của thì biết mà nỗ lực, có rồi giữ được, đến phương phát tài để cầu tài thì phát càng nhiều. Ngược lại, khi thân gặp bại vận không thắng nổi tài, thì phát tài càng to, tai họa càng lớn.
Ví dụ 2. Dụng thần là kiêu thần (nam).
Mệnh này thân nhược, không được lệnh tháng lại không có trợ giúp; kiêu thần nhược nên lực sinh phù yếu, vân xem là được sinh; lộc tị của chi năm nhược trợ giúp thân, cũng xem là đắc địa nhưng lực của nó rất yếu (can ngày không được đất của chi tháng là vì can ngày âm lại sinh ở tháng mộ kho, chi tháng không tàng khí của nó cho nên chi tháng không có khí gốc).
Ngược lại, can của trụ năm sát khí đằng đằng, thương quan hợp với sát mà không hóa (điều kiện hợp đòi hởi can ngày tháng hoặc can ngày giờ, hơn nữa chi tháng là tháng hóa vượng). Nhưng sát có thể sinh kiêu ấn sinh thân, cho nên nếu gặp vận tốt thì còn có một số quý khí nhất định, nếu gặp vận không có cứu thì dù bản thân có cứu cũng khó tránh được cho người nhà.
Từ tuổi thơ vận đầu là ấn vận, lợi cho học hành, lợi thân nên hoàn cảnh gia đình và học hành mọi mặt đều tốt. Sang vận quý hợi, sát ở đầu vận. Thương quan chỉ có thể hợp chặt sát của can năm, khó mà hợp được sát của lưu niên, nên khi gặp tuế vận, mình không chết thì có người thân chết. Năm 1973 là năm quý sửu, bà nội và anh cả liên tục mất. Sang quan vận gặp phải thất sát của năm, thương quan của giờ, cho nên cũng là bại vận. Thiên tài ở vận này càng không tốt, vì tài mà sinh họa. Năm 1993, vì ba năm liền nhập khẩu hàng lậu các phối kiện nên bị hải quan tịch thu. Đúng là tài sinh thất sát khắc thân. Vì là kỵ thần của vận khắc dụng thần cho nên khó tránh khỏi tai nạn. Kiêu thần vốn có thể hóa được sát, nhưng bị đại vận khắc nên không vùng lên được, ở vận này còn có năm khắc mẹ. Vì kiệu thân người này có gốc nên mệnh cứng, do đó bà mẹ mất năm 1989 là năm kỷ tị. Thực thần lưu niên chủ việc sinh kị thần tài tinh, trực tiếp khắc dụng thần kiêu thần là mẹ, kiêu và thực cùng gặp thì mẹ khó mà giữ được. Sang vận thực thần lại cùng gặp cả hai: kiêu và thực, hơn nữa là bại vận xì hơi thân. Thương vận cũng là vận không có cứu, nhưng đã qua được tài vận. Mãi đến tuổi ngoài bảy mươi mới đỡ thì đã muộn. Đây là ví dụ một người không gặp vận.
Đặc điểm của mệnh này là: thương sát kiêu của Tứ trụ là tổ hợp không tốt, nhưng sát khắc thân có hợp có hóa, hóa kị thần là thần phúc. Trường hợp này nhất định phải có sự giúp đỡ của vận. Vận không giúp thì chắc chán không có được tháng ngày nào vừa ý. Người đó sẽ long đong vất vả suốt cuộc đời. Rõ ràng là không bằng được cuộc đời ở ví dụ 1, tuy đều có dụng thần là kiêu.
Ví dụ 3. Dụng thần là kiêu thần (nam).
Ở mệnh nam này các cách cục đánh lại nhau một cách vô tình. Nhật can là quý sinh vào suy địa của tháng tuất, may nhờ có kiếp của trụ giờ giúp thân nên là có trợ giúp. Tí thủy trên trụ giờ vốn nên là đắc địa, nhưng vì tí sửu hợp hóa thành thổ nên lại trở thành mất.
Ba thổ là sao khắc dầy đặc, lệnh tháng gặp xung, sửu tuất tương hình, quan sát hỗn chiến, thương quan nhiều lại lộ ra ở trụ năm, trụ tháng là cả đời vết thương chồng chất. Tứ trụ này thương quan đi liền nhau như hình với bóng, nên nhất định sẽ gặp tai nạn thương tật.
Bất luận là nhật can nhược thương nhiều, hay nhật can nhược quan sát nhiều đều nên lấy ấn tinh làm dụng thần. An tinh có thế hóa quan sát sinh thân, cũng có thể chế ngự thương quan. Dương hóa dương, dương chế dương vốn nên chọn chính ấn canh kim làm dụng thần.
Nguyên cách không có chính ấn, chỉ có thể lấy kiêu thần thay, lực của nó kém hơn chính ấn. Kỵ nhất là gặp năm thìn tuất tương xung. Sau vận 52 tuổi mới bình yên. Trong vận thực thương trước đó, năm canh tuất (1970) là năm thiên khắc địa xung, ngã bị thương làm cho cằm bị thương, canh kim khắc giáp mộc, giáp mộc là đầu nên bị thương ở phần đầu. Tài vận thiên can khắc dụng thần chính ấn, địa chi hợp với quan càng vượng, nên năm nhâm tuất (1982) vì đổ xe gãy cánh tay trái, bị thương tay phải, suýt nguy hiểm đến tính mệnh. Đó là do đại vận hung, may nhờ thiên can của lưu niên giúp thân nên còn được một ít tiểu cát, chính là tí sửu hợp với thổ của chi ngày, sửu là thiên ất quý nhân, tóm lại là còn có cứu. Tài vận đinh sửu lại khắc kiêu dụng thần, nhờ sửu thổ của chi vận là quý nhân của vận, nếu không thì tuyệt mệnh. Năm nhâm có thân tí thìn hợp mà sinh cho thương quan, nên năm đó thương tật sang người em trai. Năm 1992 vì xe đổ mà người em chết (người mà thân thấu thương quan nhiều là người mệnh cứng, gọi là người “đầu hoắt, chân hoắt”, có nghĩa là anh chị phía trên và các em phía dưới khó bảo toàn được). Trong vận này năm giáp tuất (1994) không những thìn tuất tương xung mà cả ba giáp đều sinh cho kỵ thần tài tinh, nên tai họa ẩn phục khắp nơi. Vận quan sát cũng khó qua, năm 1998 cùng gặp tuế vận cho nên còn đối mặt với cái chết. Mệnh này không những trắc trở từ bé mà ngũ hành luân chuyển vô tình. So với hai ví dụ trước đều lấy kiêu làm dụng thần càng thấy mệnh này nguy hiểm trùng trùng.
Ví dụ 4. Dụng thần là chính quan (nam).
Mệnh nam này nhật can tân kim sinh ở tháng thân đế vượng là được lệnh, được lộc gắn liền kình dương nên đắc địa, lại được kiếp tài vượng giúp thân nên có trợ giúp. Trong chi của Tứ trụ có bốn tỉ kiếp, bán hội kim cục, nhật nguyên thâm căn cố đế.
Can thấu thực thần ở tử địa, lực xì hơi thân có hạn, lại không có tài tinh làm hao tổn thân, quan tinh ở bệnh địa, không có lực chế ngự tỉ kiếp, hơn nữa lại đóng dưới thực thần. Quan tinh của trụ này tuy trong sáng, nhưng vì bị chế ngự, không vượng cho nên chỉ làm đến chức trưởng thôn.
Tứ trụ này vì tự thân đã quá vượng, không cần ấn tinh sinh thân, cho nên khuyết thổ cũng không trở ngại gì. Tỉ kiếp lại thái quá, nếu tài thấu hoặc tài tàng đều sẽ bị kiếp, do đó không có tài cũng không phải là xấu.
Nhưng cuối cùng ngũ hành thiên khô, tỉ kiếp là tối kỵ, thứ nữa là ấn kiêu. Nhật chủ tân vượng lại nhiều tỉ kiếp nên trước hết lấy chính quan làm dụng thần. Tai họa lớn nhất trong đời là khắc cha, khắc vợ, phá tài.
May đại vận của người này tốt, không có vận tỉ kiếp. Các vận kiêu, ấn là bại vân, tốt nhất là vận chính quan, thứ nữa là các vận sát, thiên tài, chính tài. Trong đó kiêu vận sinh thân là kị, đoạt thực càng kị. Thực là ngôi của cha. Kiêu vận còn ở độ tuổi thiếu niên cho nên chỉ khắc cha. Dự đoán bô’ mất năm 1969 là năm kiêu thần đoạt thực thần. Quả nhiên ứng đúng năm đó. Qua được vận kiêu ấn đầy khó khăn gian khổ, sang vận sát hoàn cảnh gia đình tốt dần. Nhưng chi của vận là tị hỏa cùng với chi năm và chi giờ cấu thành ba tị hình một thân, lại là hình kình dương, hợp với vận kình dương, may mà hình khắc thân kị thần là tương hình tốt, là hình khắc có ích, nhưng năm mà tam hình đều đầy đủ thì phải có một tai nạn, song vì nhờ thực thần gặp thiên đức nên có cứu. Quả nhiên năm giáp dần là năm có đầy đủ tam hình của các lưu niên dần, thân, tị – lệnh tháng – chi vận sinh được một đứa con nên khởi nạn. Người này, vận thực thương xì hơi thân là vận tốt. Vì dụng thần là quan, thực thần tuy nhược nhưng nhờ gặp vận mà vượng, khắc dụng thần quan tinh đóng ở phía dưới là điều kị; thương quan là sao khắc quan, do đó vận thực thương chỉ được xem là vận bình thường. Hơn nữa đến lưu niên thực thương phải chú ý đề phòng tranh cãi nhau về chức vụ và các tai họa khác.
Đặc điểm của Tứ trụ này là tuy ngũ hành thiên khô nhưng vô sinh, có xì hơi, có chế ngự, lúc dụng thần lâm vượng còn có thể có quyền quản một vùng nào đó. Tuy là mệnh thiên khô nhưng trong mệnh không có tài, kiếp tỉ lại vượng, vốn là mệnh thầy tăng. Nhưng thiên khô không kị, lại là người có tình nên từ năm chuyển tốt đến lúc về hưu là gặp các vận dụng thần, hỉ thần nên dần dần có của, có chức. Từ năm 1984 về sau của cải khá dần, buôn bán lâm sản, con đường phát tài đúng hướng, phát một mạch đến tuổi trung niên. Chỉ tiếc đến các năm tỉ kiếp kiêu ấn vượng lại khó tránh khởi vợ ốm, cha chết, hết của.
Ví dụ 5. Dụng thần là thực thần (nữ)
Người nữ này ngũ hành thiên khô, mệnh yểu. Bính hỏa vượng ở tháng hai, không những được lệnh, còn được sinh, được trợ giúp, đắc địa, nhật nguyên cực cường vượng, lại còn có dần mão thìn mộc sinh thân.
Ngược lại, những sao làm hao tổn, áp chế không có. Trong mệnh kiêu thần vừa nhiều, vừa vương là kỵ tinh, không có thiên tài chế ngự. Mệnh này ứng với câu; “Thê thiếp không đến cùng cứu giúp, mệnh như cây cỏ lau trong sương mùa thu”.
Dụng thần vốn là thiên tài, nhưng trong mệnh không có nên gọi là nguyên cục không có dụng thần. Nếu gặp được trong vận là được dụng thần của vận cứu, song ở đây hung thần lại đến trước. Bước sang kiêu vận, mộc vượng, bị bệnh u phổi, khó qua được năm giáp tuất (1994) là vì mộc nhiều, kim không có để chế ngự.
Kỵ thần hóa cường vượng, nguyên cách lại không có dụng thần, cho nên đành chọn thực thần tương đối mạnh làm dụng thần thứ hai. Chi năm thìn thổ là thần xì hơi của can ngày bính vượng. Thòi trẻ nhờ có ngang vai vượng xì hơi cho thân nên may còn sống được. Sang ấn vận chế ngự được thực thần, nhưng không phải là chính khắc; kiêu vận giáp mộc đoạt thực thần mậu thổ, dụng thần bị khắc mất là không có dịp may để sống.
Đặc điểm của mệnh cục này là dụng thần còn có thể chọn quan sát. Nhưng quan sát sinh kị thần nên không chọn. Mặc dù không được chọn, quan tinh quý thủy trong thìn đã yếu lại càng yếu, vừa xa vừa ít tức thủy xa cứu không nổi hỏa gần,, chỉ có thể bốc hơi mà thôi, chẳng trách mà quan vận chưa kịp đến, vận tai ách đã đến trước rồi. Rất đáng tiếc, người nữ này nếu biết sớm, không sống ở đất hoả phương nam mà lên phía tây- phương kim, để sinh sống, đề phòng trước, và còn tìm cách bổ cứu từ nhiều mặt khác thì không đến nỗi chết. Nay vận tốt chưa đến, tai ách đã lù lù ra đó, hối đã không kịp nữa rồi.
Ví dụ 6. Dụng thần là thiên tài (nam)
Người này mất năm 32 tuổi. Nhưng so với người nữ mắc bệnh u phổi ở trên giống nhau đến kinh ngạc. Điểm khác nhau chỉ là ở chỗ không chỉ có một dụng thần. Giáp trường sinh ỗ hợi nên được lệnh, được vượng địa, vượng sinh, lại còn được trỢ giúp. Thông thường mà nói: nhật vượng gặp quan vượng là quý mệnh. Nhưng ở đây kiêu vượng thấu sinh thân, lại được vượng quan liên tục tương sinh, quý khí bị khắc chế xì hơi lên kị thần, cho nên mệnh quá vượng, rất khó cứu, huống hồ ác tính lại tuần hoàn, gặp phải kị vận là tính mệnh khó bảo toàn.
Nhật vượng nên kị vượng sinh, chọn cái kị đó làm dụng thần, cho nên lấy tài tinh chế ngự kiêu, trong trụ mậu thổ trong dần là thiên tài. Mậu tuyệt ở hợi, cho nên dụng thần không vượng, rất dễ bị khắc mất, tức mệnh yểu. Vận không gặp thời, kiêu vận là bại vận, vượng mà sinh cho thân, nhưng dụng thần còn chế ngự dược. Sang ấn vận hãy còn tạm giữ được, nhưng vừa sang tỉ vận lưu niên giáp tuất, “tỉ tỉ” đều là giáp, tuất lại là dụng thần mậu thổ mộ kho. Kết quả chết trong nước. Đúng là kị vận đến thì khó thoát khỏi.
Ví dụ 7. Dụng thần là thiên tài (nữ)
Tứ trụ người này bình thường và yên ổn. Đúng là vì mệnh cục phổ thông, trừ một số tô hợp giữa lưu niên và đại vận không tốt nói chung không có trắc trở gì lớn. Khi dự đoán cho Tứ trụ tương đối cân bằng, thường không dễ tìm được dụng thần. Ví dụ này thuộc loại đó. Nhật nguyên tân sinh vào tháng tuất là được lệnh, còn được sinh, được trợ giúp, nhưng đều không vượng lắm. Tài tinh làm hao tổn xì hơi, thực thương lại đều nhược, nếu là hỉ của dụng thần thì giàu không nổi.
Sao khắc áp là hai chi mão tuất hợp hỏa thấu ra bính là quan tinh hợp hóa thành công, nhưng lại nhập mộ kho nên “sang” không nổi (chú thích: trong Tứ trụ quan tinh nhập mộ không tốt, còn khi quan tinh là kỵ thần nhập mộ của đại vận, lưu niên thì lại tốt). Gặp bại vận thì kém hơn, có thể bị ốm đau hay một tí tai họa. Nhờ ngũ hành lưu chuyển có tình, lại có thiên đức, nguyệt đức là thần đại cát hóa giải nạn, được bình yên là phúc lắm rồi.
Theo lý mà nói: nhật can vượng, địa chi lại có hai tân kim, nhật can đã có gốc sâu lại còn có kiếp tài giúp trợ thân thì nên lấy quan sát làm dụng thần. Nhưng can theo kiêu ấn mà có gốc thì nếu vẫn lấy quan sát làm dụng thần, dụng thần sinh cho kị thận thì không phải là dẫn đến nguy cơ thân càng thêm vượng hay sao? Cho nên, mệnh này phải căn cứ nhật can vượng, ấn tinh nhiều làm kị thần để chọn dụng thần, do đó dụng thần chọn tài tinh. Thiên tài đóng ở ngày sinh có thể chế ngự kiêu thần, song không như chính tài vừa sinh chính quan áp chế thân, lại vừa có thể hợp chặt kiêu thần không để cho nó sinh thân. Cho nên dụng thần gặp chính tài là vận tốt. ở đây nguyên cách không có chính tài nên lấy thiên tài làm dụng thần.
Mệnh nữ này năm bính ngọ, trước khi vào đại vận đã gãy tay. Đó là vì bính sinh kỷ thổ, quan kiêu tương sinh, tí ngọ tương xung, kiêu thực cùng gặp nên là năm thiên khắc địa xung, bị thương tàn phế. Sau khi vào vận, gặp vận thiên tài, kiêu thần bị chế ngự nên tương đối thuận lợi.
Trong vận thiên tài có thể phát đạt được một ít tiền của, đó là vì chính tài sinh chính quan áp chế thân, lại hợp chặt kiêu thần. Năm 1984, 1985 được tài, vừa vượng chồng lại được con. Vận thực thương là vận hỉ thần, có thể làm hao tổn, hợp kiêu ấn, cũng xì hơi vượng thân. Nhưng kiêu thần đoạt thực thần, thương quan lại gặp quan đều là tiêu chí không thuận, nên là vận tốt nhiều xấu ít. Các vận tỉ, kiếp về sau đều kém hơn.
Đặc điểm Tứ trụ này là: can hợp, chi hợp, nhất là chi hợp nên người này cô, ghẻ lạnh, không cởi mở, không có lòng hại người nhưng lại luôn đề phòng người khác. Trong mệnh hợp nhiều lại có đào hoa nên vừa đẹp vừa đa tình. Khi gặp vận tốt vợ chồng rất hòa thuận. Chỉ sợ bại vận đến, thân vượng lại gặp ngày âm dương xô lệch, e rằng hôn nhân không thuận mà còn khắc cha, phá tài.
Ví dụ 8. Dụng thần là thiên tài ( nam )
Mệnh nam này thân vượng, được lệnh, đắc địa, được trợ giúp lại còn được sinh. Dụng thần tài tinh bị hợp nhập kho, nhưng thương quan gần, gắn chặt sinh thiên tài, cho nên vẫn chọn thiên tài làm dụng thẩn.
Thời thơ ấu gặp vận thiên khắc gia xung, hơn nữa thương quan gặp quan, không đoán cũng biết được là có nạn. Năm 4 tuổi bị ốm thương hàn suýt chết. Nhờ gặp vận có chế, khắc áp vượng thân nên có cứu. Sang sát vận, từ bé đã có tiếng tăm. Sang hai vận sau: ấn vận và kiêu vận vốn là kỵ vận sinh thân, nhưng thân sông ở phương nam là đất tài vượng, mà có bổ cứu, ấn chủ về văn, thương quan gặp ấn là quý hết chỗ nói, không những hay phát biểu, tham luận mà còn trở thành Đại biểu Quốc hội. Sang các vận kiếp, tỉ là vận bại tài, khó tránh được khắc cha. Năm 1992 là năm kiếp tài, cha ốm mất.
Đặc điểm của Tứ trụ này là: địa chi hợp nhiểu, hợp mất nhiều nên không thuận. Đoán thòi kì tốt là lúc nhật vượng, xì hơi cũng vượng, mộc hỏa tương sinh cho nhau nên công danh hiển đạt. Thương quan vượng có thể sinh dụng thần, dụng thần từ nhược biến thành mạnh là nhờ được lực của hỉ thần thương quan. Sau khi xác định rõ phú quý có thể tiến thêm một bước dự đoán xem phú quý đến đâu. “Thương quan sinh tài là phú quý do trời đưa đến” “Quý nhật đóng cung tị là tài quan song toàn”. Quý lộc bị hợp tức tí lộc gặp sửu hợp là “phú chân chính”.
Then chốt là thân vượng nên có thể thắng tài quan, còn nhờ được lúc vận không có cứu lại sống ở phía nam nên được bổ cứu và phát triển. Công việc buôn bán của người đó cũng lấy hoả làm tài tinh nên được làm chức Chủ tịch Hội đồng quản trị. Giàu sang đều có. Nếu gặp vận tốt thì như hổ thêm cánh, tốt là nhờ chi vận có cứu. Người này càng già càng tốt hơn. Ở đây chúng tôi muốn định rõ nhật can mạnh, yếu, cách tìm dụng thần và nắm vững xu thế cát, hung của các đại vận làm chính còn giàu sang đến mức độ nào thì độc giả chỉ có khái niệm rồi trên cơ sở đó tiếp tục đúc kết kinh nghiệm.
Ví dụ 9. Dụng thần là thiên tài (nam).
Tứ trụ này cách cục có bốn xung, những tổ cục bất lợi này thường gây tác hại rất sâu sắc. Gặp các năm tí ngọ mão dậu nhất định sẽ ứng nghiệm. Kỷ trường sinh ở dậu, đinh trường sinh ở dậu, thân vượng kiêu vượng, được lệnh, được sinh lại được lộc, nhật can lại có gốc nên mệnh này được xem là cường vượng. Quan nhược nhưng được kiêu vượng hộ vệ nên vẫn có quan tuy không lốn, chỉ là người học trò đọc sách. Dụng thần chọn thiên tài của chi giờ để chế ngự kiêu thần sinh quan, đáng tiếc là dụng thần không có lực. Tỉ kiếp là bại vận, thực thần tân dậu làm chủ mọi việc (năm 1981).
Thương quan tuy không có trong trụ nhưng canh lộc ở dậu lại vượng, nên năm gặp quan vì tí mão tương hình mà nằm viện. Năm kiêu thần đinh mão làm chủ (1987) là phần lớn không thuận. Năm 1990 thương quan canh ngọ làm chủ, quan vận không hanh thông, mâu thuẫn vối lãnh đạo. Chi năm quý hợi (1983) dụng thần vượng lại không bị xung đột, nên thi vào đại học được thuận lợi. Bước sang thương vận thì khó tránh được bị hình thương. Thương vận có thể làm xì hơi thân vượng nên được xem là vận bình thường, nhưng vào những năm hung vẫn không tốt. Vừa bước sang thương vận thì gặp năm quý dậu, tài tinh chủ mọi việc, vốn là không có tai họa, thương quan sinh tài còn có thể có con.
Chi dậu của lưu niên gặp thái tuế xung khắc bản thân hoặc cung thê cho nên đoán anh ta hoặc vợ bị thương. Quả đúng như thế, vì dậu xung phá mão cung thê. Vận thương quan gặp quan, quan ở ngôi tí cho nên vỢ có thai bảy tháng sẩy thai. Năm giáp tuất, lại là năm quan gặp thương vận, vừa tháng giêng đã tắc ruột nằm viện mổ. Ra viện không lầu lại bị tai nạn đi xe, bị thương ở mặt. Thật là tai họa chồng chất, và còn liên lụy đến mẹ nữa. Để tránh tai họa, thầy Thiệu đã khuyên anh ta thôi giữ chức. Anh ta vốn cũng muốn thế đã mạnh dạn rút lui. Các vận trình từ đó về sau là: thực vận kỵ năm kiêu vượng gặp thực vượng. Sau 48 tuổi mới bình an thuận lợi. Nhưng gặp năm tứ xung, năm kị thần vượng thì còn trắc trở. Điều tốt là kị vận đã qua, nguy hại không đến nỗi chồng chất nữa. Gặp vận dụng thần thiên tài, kị thần bị chế ngự nên sự nghiệp hanh thông (năm mão dậu phải đề phòng). Vận quan sát hơi kém hơn.
Tứ trụ này tí ngọ mão dậu đều có, thân vượng kiêu vượng bảo hộ cho quan tinh nên điều quý không bị mất. Người này “ngày giờ tương hình gặp quý nên là người có quyền có chức”, do đó giữ chức vụ quan trọng của thành phôi Kị nhất là tỉ vận khắc phạt dụng thần, bản thân dụng thần thiên tài không có bệnh, chẳng qua vì năm kỷ tị của vận đó lại gặp ngang vai, nên bị khắc phạt là điều chắc. Nhưng nhờ bốn chi không có yếu tố kích thích xung phạt lung tung, dụng thần lại tàng chi, hơn nữa các ngũ hành sinh hóa có tình, đó là cứu tinh lớn nhất. Đó là người gan góc, có bản lĩnh, giao thiệp rất rộng, được bạn bè giúp đỡ, chỉ tiếc là vận không thuận mà thôi. Đặc điểm là các chi hợp với nhau ngược với Tứ trụ cho nên tai họa vừa lổn vừa dày. Độc giả cứ đối chiếu xem, nhất định sẽ nâng cao nhận thức về mặt xung khắc.
Ví dụ 10. Dụng thần là ngang vai (nữ)
Nhật can mậu sinh vào tháng tí là rơi vào thai địa, ngũ hành thiên khô, may mà ngang vai của nhật can có gốc, thuỷ có kho chứa nên tránh được tai họa hồng thuỷ vỡ đê. Dụng thần chọn là ngang vai. Tài của Tứ trụ lại tàng tài, thấu đều ở vượng địa. Nhật nhược không thắng nổi tài là người nhiều nhà cửa nhưng ít của.
Vận đầu là thương thực sinh tài nên bệnh nhiều và nguy hiểm. Nhâm quý quá vượng khắc bính hỏa là bệnh tim hay bệnh về máu. Quả nhiên là bị bệnh bại huyết. May mà sau vận ngang vai (tỉ) đều là vận tốt, sức khỏe hồi phục trở lại. Nhưng loại bệnh này khó chữa, cho nên khi khám bệnh phải khám trực tiếp để xem sắc mặt mới có thể kết luận được. Thân nhược tài nhiều thì dùng ngang vai để chống lại, nên người này nhờ có vận cứu, nhưng vì thiên khô quá nặng nên gặp lưu niên thì bệnh còn trở lại.
Vỉ dụ 11. Dụng thần là chính tài (nữ)
Người này hơn nửa cuộc đời trắc trở, mãi đến khi dụng thần lên ngôi mới thoát ra được. Ngày ất sinh ở mộ địa. Kiếp tuy không vượng nhưng có gốc lại nhiều, là thân nhược có kình dương trợ giúp, thân nhược còn được ấn sinh nên trở thành vượng. Tứ trụ này chưa mất cái quý, tài nhiều mà có gốc, ngũ hành sinh khắc có tình, cho nên rất giàu có cũng rất từ bi, giàu sang công danh đều có.
Dụng thần là chính tài chế áp ấn, khiến cho sát sinh không nổi ấn, lại làm hao tổn thân vượng cho nên dụng thần này đạt được cả ba mục tiêu.
Cân bằng sinh khắc của các ngũ hành không tốt lắm. Nếu sinh khắc chế hoá có tình, dụng thần có lực, hơn nữa mỗi ngũ hành đều phát huy được chức năng của nó mới là tốt. Sát vượng sinh ấn lại có kình dương là công danh rất cao và không dễ bị mất. Dụng thần tài tinh ở đây chỉ có tác dụng cân bằng mệnh cục, vì sát vượng ấn vượng lại có kiếp, kình dương giúp thân, thân quá vượng để dùng được tài. Tài nhiều và có gốc, cho nên dù gặp bại vận cũng khó mà sập đổ.
Người này hay tích đức làm việc tốt, là hậu duệ của bậc trung liệt, yêu nghệ thuật, nhưng gặp kị vận nên không nổi tiếng. Các vận kiêu ấn sức khoẻ hơi yếu, đó là vì thân vượng phản khắc trở lại. Sang sát vận chỉ vì sinh ấn nên thân càng vượng, vận chế áp thân nên dẫn đến tai họa.
Gặp thời cách mạng văn hóa, nhà bị lục soát mấy lần. Người này gặp năm bị kình dương xung, tai họa cực xấu ứng vào năm hung sát tuất gặp hợi (người tuất gặp hợi hoặc người hợi gặp tuất là thiên la địa võng) ngồi tù. Tiếp theo đó là quan vận, ngồi trong tù không lấy chồng được chứ không phải khắc chồng. Ngồi tù mất 19 năm. Cái tốt là vì có tài nghệ trong tay nên được mọi người kính nể, không những không uổng phí mà còn mài sắc ý chí. Khi vận kỷ tỵ đến cũng là lúc xung khai tuất, mây mù tan hết, vừa ra ngục thì gặp may liên tục. Sang vận chính tài là vận dụng thần lên ngôi, tài hoa phát triển, công danh lừng lẫy giành được người đứng đầu trong cuộc thi thế giới, được các vị lãnh đạo cao nhất của Nhà nước tiếp kiến, về già gặp vận hỉ thần, công danh lợi lộc đều có, phúc thọ mãi cho đến lúc mất.
Ví dụ 12. Dụng thần là kiếp tài (nữ)
Người này nhật can mậu sinh tháng mùi là không được lệnh, ở trụ giờ tuy có sửu thổ giúp thân, nhưng thực vượng sinh tài lại còn thân nhược. Dụng thần chọn là kiếp tài vượng để giúp thân thắng tài. Tuổi thơ gặp tài vận là thân thể có tật, mẹ không lợi, khôn khó đảo điên. Sang vận thương, thực cũng là bại vận. Mãi đến năm 39 tuổi dụng thần lên ngôi mới mở mang được, trở thành người giàu. Trung và hậu vận rất tốt.
Ví dụ 13. Dụng thần là thất sát (nam)
Nhật can kỷ sinh tháng mão là ở bệnh địa, tuy không được lệnh nhưng được kiếp tài vượng trợ giúp nên thân vượng, thất sát vượng hóa ấn sinh thân. Tuy ngũ hành không đầy đủ nhưng cũng còn khả dĩ.
Dụng thần chọn sát vì thân hơi cường vượng quá sát nên không bị sát. Các vận: ấn kiêu kiếp tỉ đều là vận thân vượng, là vận không lợi, nhưng sát vượng không sợ chế hoá. Thương thực hợp với nhau chế ngự thất sát. Tiểu nhân được chế ngự, công danh có thể đạt. Sang tài vận sinh cho thất sát, cân bằng lại vượng thân, cho nên từ thương vận trở đi đến già cuộc đời thuận buồm xuôi gió.
Trong mệnh này hai chi mão tuất hợp nhau bị thìn xung, thìn dậu hợp kim, thiên can không có canh, tân lộ ra để hóa, lại gặp mão xung nên được xem là xung:
Ví dụ 14. Dụng thần là chính ấn (nam)
Mệnh nam này nhật can tân sinh tháng ngọ là được lệnh, ấn tinh vượng lại được sát vượng sinh cho là được sinh, chi giờ gặp lộc là đắc địa. Sát ở đây được vượng tài sinh cho lại vượng thêm mà khắc thân, thực thần không có lực để chế ngự sát, may mà sát được ấn tinh hóa cho để sinh thân, khắc thần không khắc, nhưng kị tài sinh quan sật chế ngự ấn, như thế gây ra bất lợi. Thân nhược, tài sát vượng thì cho dù ấn vượng, chung cục vẫn là thân nhược.
Dụng thần là chính ấn. Trong cách cục ngũ hành sinh khắc lưu chuyển hợp tình nên gặp hung có thể hóa cát. Bước vào sát vận, sát vận sinh ấn tiếp tục sinh thân nên học giởi. Sang quan vận với thất sát hỗn tạp. Năm tài sinh thất sát đã có thể buôn ra tiền nhưng bất ngờ đổ xe, nên tiền đó lặi bồi thường hết. Bước sang tài vận là kị vận, gặp năm không thuận nếu hành động khinh suất, mù quáng là dễ chuốc lấy tai vạ, may nhờ dụng thần vượng nên không dễ bị đổ vỡ. Sang vận thực thần lâm vượng có thể chế ngự sát, thương vận có thể hợp sát, đều là các vận bình thường. Hai vận cuốỉ tỉ kiếp thì vừa ý, có thể trường thọ. Tứ trụ này nếu có vận ấn tinh có thể giàu nhất làng, đáng tiếc là không có.
Đặc điểm của Tứ trụ này là: dụng thần chính ấn là thổ, gặp vận mậu kỉ hoặc canh tân thì ở vùng phía tây hoặc ở ngay tại chỗ là đất sinh thân, giúp thân, cuộc đời phúc thọ phú quý, nhưng ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý và vận trình đến sự phát triển không lớn. Ngoài ra tên và họ nhiều chữ thuỷ, toàn là cái làm hao tổn khí sinh trợ cho mình, nên thêm ngũ hành chữ thổ hoặc chữ kim để bổ cứu.
Ví dụ 15. Ví dụ đặc biệt về dụng thần là chính ấn.
Ngài Trương Chấn Hoàn, nguyên Chủ nhiệm ủy ban Khoa học kĩ thuật công nghiệp quốc phòng – vị lãnh đạo ưu tú trên mặt trận khoa học kĩ thuật quốc phòng của Trung Quốc – vì bị bệnh tim bột phát, cấp cứu nhưng không có hiệu quả đã tạ thế ở Bắc Kinh hồi 23h30 phút ngày 23 tháng 3 năm 1994, hưởng thọ 79 tuổi.
Chúng tôi ôm nỗi đau sâu nặng này truy điệu một con người vĩ đại đã suốt đời không mệt mởi hy sinh cống hiến cho sự nghiệp đất nước và biểu thị lòng sùng kính vô vàn đốì với một cuộc đòi bình thưòng nhưng vô cùng trong sáng, cao thượng đó.
Sự vĩ đại của ông không những ở chỗ đã cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân Trung Quốc, cho sự nghiệp quốc phòng mà còn ở chỗ ông không tính toán thiệt hơn về công danh, lợi lộc, suốt đời lăn lộn, làm việc tận tụy, không những tự yêu cầu mình nghiêm khắc, mà cả đối vỡi con cái càng nghiêm, là một vị quan thanh liêm ít có, mà còn có tầm nhìn cao rộng, kiến thức quảng bác, vượt qua những nhiễu loạn tầm thường, có một nhãn quan nhạy bén nắm bắt những ngành khoa học mới, cổ vũ khoa học phát triển, cổ vũ sự khám phá những lĩnh vực khoa học mà mọi người chưa chú ý với nhiệt tình cao nhất.
Cho nên sự ra đi của ông là niềm đau thương không gì bù đắp được của các nhà khoa học, các nhà khí công và các nhà dự đoán. Hôm nay giỏi khí công đang lập: “Quỹ Trương Chấn Hoàn” nhằm hỗ trợ phát triển ngành khoa học vùng biên (là ngành khoa học lấy hai ngành khoa học khác trở lên làm cơ sở) để kỉ niệm cuối đời ông đã quan tâm đến sự phát triển các ngành khoa học này. ở đây chúng tôi theo bước đời ông đã trải qua, lần theo Tứ trụ của ông để tìm hiểu cuộc sống vĩ đại đó.
Đây là cách cục “thương quan có cả ấn, quý không nói hết được”. Cách cục này được thành lập trên cơ sở thân nhược có ấn sinh. Dụng thần chính ấn có lực, nhật can tuy nhược nhưng có gốc, có trợ giúp, chỉ cần gặp kỵ thần tài vận muộn thì không những quý là thần nhân mà tuổi cũng thọ.
Người mà “thương quan lẫn ấn” lại sát vượng, ấn vượng, “ấn sát tương sinh là chủ về công danh”. Tuy nhiên ông không tham lam trong công danh lợi lộc, song đó là người văn võ kiêm toàn. Tuy không bao giờ tranh giành quyền lợi nhưng luôn đạt được thành công bất ngờ. Đây là người thực học thực tài, công danh tương xứng với thực lực.
Ta chia đại vận làm ba giai đoạn để phân tích.
Giai đoạn thứ nhất
Gồm các vận: tỉ, kiếp, kiêu; giai đoạn thứ hai gồm các vận: ấn, sát, quan; giai đoạn thứ ba, các vận: thiên, chính, tài. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn học tập và chiến đấu ở trận tiền cho cuộc kháng chiến giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Hai vận tỉ, kiếp giúp trợ thêm, trong mệnh cục ấn vượng, nên thông minh học giỏi. Lên thẳng Đại học Bắc Kinh theo học, tích cực tham gia các hoạt động tiến bộ và phong trào kháng Nhật cứu quốc “29 tháng giêng” của sinh viên. Năm 1936 tham gia cách mạng liên tục cho đến ngày giải phóng, vào sinh ra tử, tham gia tổ chức và lãnh đạo các phong trào sinh viên, đấu tranh bí mật, tham gia du kích rồi Bát lộ quân, Tân Tứ quân, tham gia chỉ huy và công tác chính trị của Quân dạ chiến Hoa Đông và đã tham gia nhiều chiến dịch.
Thầy Thiệu Vĩ Hoa đã có vinh hạnh dự đoán cho ông lúc sinh thời về một lần thoát ra từ cõi chết. Đó là năm 1943, tuế vận quý mùi. Năm đó khi một số sĩ quan cao cấp của Tân Tứ quân bị Quốc dân Đảng bắt giam, chuẩn bị sau bữa cơm trưa sẽ tử hình. Khi mà Trương Chấn Hoàn và những bậc lão thành cách mạng khác không nao núng trước cái chết thì đúng lúc đó máy bay Nhật đến ném bom, nhân cơ hội đó họ đã trốn thoát.
Giai đoạn thứ hai
Là những năm chủ nhiệm Trương Chấn Hoàn sung sức nhất, lăn lộn trong công tác khoa học kỹ thuật quốc phòng, nhiều lần giành được thành tích xuất sắc. Ông tham gia tổ chức và chỉ huy công tác thử nghiệm quả bom nguyên tử đầu tiên của Trung quốc thử nổ trên không lần thứ nhất, thử nổ bom khinh khí trên không lần thứ nhất, tên lửa vượt đại dương, tên lửa ngầm, dưới đất, liên lạc vệ tinh, tổ chức luận chứng và đề xuất nghiên cứu thành công máy tính điện tử cỡ lớn làm cho Trung Quốc trở thành một trong số ít nước trên thế giới có máy tính cỡ lớn đầu tiên.
Ông đã có cống hiến to lớn cho quyết sách khoa học hóa sự nghiệp khoa học kỹ thuật quốc phòng, xây dựng và phát triển sự nghiệp khoa học kỹ thuật quốc phòng hiện đại hóa mang màu sắc Trung Quốc. Những thành công của ông không những có liên quan đến quốc gia và sự yên ổn của nhân dân mà còn bài trừ được sự phá hoại nhiễu loạn của “bè lũ bộn tên”, trong điều kiện cực kỳ khó khăn đã giành được những thành quả kiệt xuất. Cho nên điểu đó cũng ứng nghiệm đúng với mệnh cục cao quý có những thành công bất ngò hơn người của ông. Năm Tân Sửu 1961, vận sát gặp năm sát, sát ấn tương sinh, được phong quân hàm Thiếu tướng, công thành danh toại. Thời gian quan vận, thương quan gặp quan, quan sát hỗn tạp nên ông bị “bè lũ bốn tên” Lâm Bưu bức ròi khởi cương vị công tác, mở đầu những năm trắc trở.
Năm mậu thân 1968 là vận kị thần, dụng thần ấn tinh nhập mộ kho của chi vận. Mãi đến năm giáp dần xung khai thân kim mới được thoát khởi. Năm 1975 là năm ất mão, thân vượng được phục hồi công tác. Đe nhanh chóng xoay chuyển nền khoa học kỹ thuật quốc phòng đã bị “bè lũ bôn tên” làm rồi loạn, ông đã thúc đẩy cống tác nghiên cứu khoa học, sản xuất và thí nghiệm, đưa nó nhanh chóng trở lại quỹ đạo bình thường, hoàn thành một khối lượng công tác khổng lồ với hiệu quả tuyệt vời nhất. Để nhanh chóng đột phá vào kỹ thuật mũi nhọn, ông đã có những công hiến to lớn cho sự phát triển của máy tính điện tử Trung Quốc.
Giai đoạn thứ ba
Là giai đoạn nghỉ hưu. Vị lão thành đầy công tích này vẫn chú ý quan tâm đến các lĩnh vực khoa học mới, luôn quan tâm cổ vũ và nâng đỡ. Sau khi về hưu ông đắm mình vào nghiên cứu khoa học nhân thể và các hiện tượng khí công. Ông là Tổng thư ký Hội Khoa học nhân thể, Tổng thư kí Hội nghiên cứu Khoa học khí công Trung Quốc. Ông tuân theo nguyên lý “Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý”, tích cực khám phá, biết khó vẫn không lùi, biểu hiện cao độ tinh thần cầu hiểu biết và thái độ khoa học. Ông tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân dân, tôn trọng chuyên gia, là người bạn tri kỷ của đông đảo cán bộ khoa học kỹ thuật, của các chuyên gia nghiên cứu khoa học vùng biên.
Vận chính tài mậu dần, kị thần nắm vận khắc dụng thần, dần ngọ tuất hợp thành thượng quan, cục nhật mộ, kim mũi kiếm quý dậu dính chặt với thân mình khắc ất mộc, dụng thần bị khắc, kị thần không hóa.
Năm đó vì bệnh tim (thương quan là bính hỏa) nằm viện cấp cứu, mấy lần nguy kịch. Khắp nơi các cao sư khí công đều kéo về cứu giúp. Thầy Thiệu Vĩ Hoa cũng dốc hết sức mình cố kéo dài tuổi thọ cho ông. Ngày 24 tháng 9 năm sau khi bệnh đỡ đã ra viện đi an dưỡng, trong nửa năm đó ông lại, cố gắng làm việc cho đến hơi thở cuối cùng. Trước khi mất, ông để lại di chúc: tang lễ đơn giản, di hài cung cấp cho y học nghiên cứu. Người vệ sĩ trung thành của tổ quốc, người bạn gương mẫu của mọi người này đã vĩnh biệt chúng ta như thế.