Dự đoán hôn nhân bằng tứ trụ

“Tam mệnh thông hội” khi bàn về mệnh nam nữ có nói: “Mệnh nam nên vượng, vượng thì phúc, suy thì tai hại. Mệnh nữ nên suy, suy thì phúc, vượng thì tai hại. Nhu là gốc là phúc, cương là hình phạt là tai hại”. Điều đó phù hợp với sự cương nhu của âm dương. Nếu nữ cương và vượng, nam nhu, suy đó gọi là âm dương sai lệch, ngược với quy luật âm dương, đương nhiên là có hại.

Đối với mệnh nữ cổ xưa có bàn riêng. Mệnh nữ theo chồng, chồng quý thì vợ cũng quý, chồng nghèo thì vợ cũng nghèo. Tức là nói: chồng phát tài thì vợ con tất giàu, chồng thăng quan tiến chức thì vợ con vinh hiển, chồng rủi ro thì vợ con cũng khó sông qua ngày. Điều này rất phù hợp trong thực tiễn. Cho nên khi xem mệnh nữ trước hết phải xem sao chồng ra sao để xác định là sang trọng hay hèn kém. Chồng là quý mệnh thì vợ cũng là quý mệnh, nếu không thì làm sao lấy được chồng cao sang.

I. DỰ ĐOÁN HÔN NHÂN (1)

1. Mệnh nam
  • Kiếp tài của nam là vợ, chi ngày là sao VỢ; tháng là cung hôn nhân, ngày là cung phối hôn.
  • Kiếp tài đóng ở ngày, chủ về vợ nội trợ tốt, hoặc nhờ vợ mà phát tài.
  • Tài tinh đóng ở ngày là vợ đảm đang, nhà cửa tốt
  • Tài tinh đóng ở ngày lại là tướng tinh thì nhất, định vợ là con nhà phú quý.
  • Chính ấn, thiên ấn đóng ở ngày là vợ hiền và thông minh.
  • Ân địa đóng ở ngày là vợ rất đảm đang nội trợ.
  • Thực thần đóng ở ngày là vợ béo, còn mình gầy nhỏ.
  • Quý nhân đóng ở ngày là vợ hiền lành, đẹp, có danh tiếng.
  • Chính tài, thiên tài đóng ở ngày lại không bị khắc phá là nhờ vợ mà được của.
  • Can ngày vượng,’ chính tại thiên tài cũng vượng là người giàu và nhiều vợ.
  • Chi ngày là tí ngọ mão dậu thì vợ đẹp, là dần thân tị hợi thì vợ đôn hậu, là thin tuất sửu mùi thì vợ bình thường.
  • Ngày gặp lộc thần, giò gặp quy thần thì vợ được quý trọng ngưỡng mộ.
  • Niên lộc quý thần giống ồ trụ ngày thì vợ dược quốc phong.
  • Mệnh nam lấy vượng làm phúc, suy là hại.
  • Quý nhân và lộc đều có ở trụ giờ là người rể vinh hiển, làm rạng rỡ tổ tông.
  • Thiên tài đều vượng mà được ngồi là vợ lẽ át vợ cả; chính tài vượng là vợ cả không dung thứ vợ lẽ.
  • Tài mệnh có khí là vợ cả, vợ lẽ hòa thuận nhau và được nhờ vợ.
  • Mã nhập cung thê là được người vợ đảm đang.
  • Lộc nhập cung thê là được ăn lộc của vợ.
  • Ngày giờ đều có lộc mã là vợ hiền, con quý.
  • Vân nam hợp với tài là lấy vợ sớm.
  • Đại vận, lưu niên tam hợp tài là có tin mừng về cưới hỏi.
  • Nam gặp tài nhiều và thân nhược là chồng hay nghe lòi vờ.
  • Hàm trì lâm nhật là nhờ vơ mà giàu,
  • Trong chi tàng phục tài là thiên vị vơ lẽ.
  • Sao vợ rõ là vợ chồng hỗ trợ nhau.
  • Tài tinh được ngồi là nhờ vợ mà giàu.
  • Tài vượng thân cường là phú quý mà nhiều vợ.
  • Trong Tứ trụ tài làm dụng thần thì vợ hiền đẹp, nội trợ giỏi.
  • Trụ ngày có mã tinh mà không bị xung phá là lấy được vợ đẹp.
  • Trong Tứ trụ có thiền tài là yêu vợ lẽ hơn vợ cả.
  • Thê tài gặp vượng, trên trụ năm lại gặp quý nhân lộc mã là vợ lấy được chồng chức cao.
  • Trong Tứ trụ có quý nhân lộc mã là vợ hiền nội trợ tốt Tài rõ thân vượng là vợ đẹp.
  • Nam gặp tài nhiều, thân yểu, là rời quê hương lấy vợ.
  • Tài tinh và dụng thần không xung khắc nhau là vợ đẹp.
  • Thực thần nếu gặp ân thì tiền tài ngày càng nhiều.
  • Thương quan bị chế khắc thì vợ là người có nghĩa khí.
  • Thương quan trùm lên ấn thì trước là tỳ thiếp sau thành vợ.
  • Tỷ kiếp vượng lại có thực thương sinh tài thì gặp vợ hiền.
  • Tài tinh đóng ở trường sinh không bị Xung khắc là vợ thọ.
  • Trụ ngày đóng ở chính quan thì vợ đoan trang, hiền dịu.
2. Mệnh nữ
  • Chính quan hoặc thất sát là chồng, chi ngày là sao chồng.
  • Xem mệnh nữ trước hết phải xem sao chồng để xác định chồng sang hay nghèo hèn, chồng sang vợ mới sang.
  • Sao chồng đóng, ở ngày làm dụng thần, chủ về chồng đại quý, vợ chồng hòa thuận.
  • Trụ ngày có quý nhân trạch mã thì lấy được chồng thông minh, hiền đẹp.
  • Tài đắc địa thì lợi chồng, thực thần đắc địa thì lợi cho con.
  • Lợi cho chồng thì suốt đòi được hưởng phúc, lợi cho con thì về sau mới hạnh phúc.
  • Sao chồng minh vượng, sao con trường sinh thì có ích cho chồng con.
  • Mệnh nữ có một quan hay một sát rõ là tốt. Có cả quan vè sát là kém.
  • Mệnh nữ không có sát, có một quý là vợ lấn át chồng.
  • Quan gặp tài là chồng thì vinh hoa nhưng khắc con.
  • Mệnh nữ không có sát nhưng lại có thiên đức, nguyệt đức và tài quan đắc địa thì được cả hai nước phong sắc.
  • Quan cùng với đào hoa nhất định là có chồng tốt làm trong triều đình.
  • Mệnh nữ lấy nhu làm phúc, lấy cương làm hại, lấy trong làm kỳ diệu, lấy đục làm thấp hèn.
  • Tài nhập tài thì chồng sang nhưng khắc con.
  • Thương quan không gặp quan là người phụ nữ trinh tiết.
  • Quan rõ là chồng vinh hoa, vàng bạc đầy nhà.
  • Tài mệnh có khí thì sông mãi với chồng đến già.
  • Sự phú quý hay bần tiện của mệnh nữ toàn dựa vào chồng con.
  • Mệnh nữ nếu gặp phu tinh vượng thịnh thì con tuấn tú thông minh, chồng vinh hiển.
  • Mệnh nữ phạm thương thì sẽ khắc sự hôn nhân, vận nhật tài thì tốt.
  • Chuyên lộc thực thần tất sẽ được vua phong hiệu.
  • Ngôi chồng bị tạp khí thì rất cần người vợ tốt.
  • Thương quan đoạt phu tinh, hoặc hóa sát thì có lợi cho chồng về mặt của cải.
  • Nếu cô loan nhập phu tinh thì tất nhiều con cái.
  • Can chi dương mà vượng là người thay chồng trong kinh doanh: Tài vượng sinh quan, thực thần lại không bị thương là chồng vinh hiển, con phú quý.
  • Quan, thực, lộc vượng lại được ấn thụ trợ giúp là hậu vận mở rộng.
  • Nếu ấn thụ không bị tài làm tổn thương, còn gặp thiên đức nguyệt đức trên trụ ngày thì người phụ nữ đó được hưởng của cải của cha mẹ, chủ động tìm được chồng, sinh con hiền quý, phúc đức ngày càng tăng, người đôn hậu, gặp điều xấu cũng dễ vượt qua, hay được khen thưởng.
  • Người thiên quan có sự kiểm chế là không dậm loạn, tuy lấn quyền chồng nhưng là để xây dựng gia đình thịnh vượng.
  • Mệnh nữ sinh vào tý, ngọ, mão, dậu thì lấy chồng tý, ngọ, mão dậu là tốt.
  • Năm là bố chồng, thai là mẹ chồng, tháng là chị em dâu, ngày là chồng và mình, giờ là con cái.
  • Gặp vong kiếp và kình dương, hay thiên ấn gặp lộc mã thì sắc đẹp hơn người.
  • Người học hợp là chủ về tính hiền đức, dung mạo đẹp đẽ.
  • Nữ có quý nhân trạch mã, phần nhiều sinh con hiền, hiếu thảo, thai sản dễ dàng.
  • Người tài vượng sinh quan cách rất hiếm gặp; người gặp cả tài và quan là vô cùng kỳ diệu, người đó chồng vinh hiển, còn quý nhờ tài vượng, trinh khiết hiền lương ngũ phúc đều có cả.
  • Người trong Tứ trụ có tài lại còn hành tài vận là chủ về nhà chồng giàu, con phú quý.
  • Người có quan vượng lại tài cũng vượng là lấy được chồng hiền chồng tốt. Người thất sát gặp trường sinh là lấy chồng phú quý.
  • Người có đủ tài quan ấn thụ là lấy chồng thịnh vượng.
  • Thực thần thái quá lại không gặp phu tinh là người vợ trinh khiết.
  • Thiên đức, nguyệt đức gặp ấn là người làm vợ cho quan chức cao sang, được hai nước phong tặng.
  • Quan sát không hỗn tạp lẫn nhau, lại còn có ấn phù là chồng sẽ đăng khoa.
  • Ân vượng quan yếu là chồng tự tìm đến mình.
  • Thương quan bị thương tổn nặng, hoặc không có quan nhưng có tài là đi làm vợ lẽ.
  • Sát gặp mộ là lấy được chồng sang trọng.
  • Sát mạnh quan yếu là sẽ li hôn, tái giá lấy được chồng tốt.
  • Tài tinh có khí lại gặp quan là lợi chồng tột bậc.
  • Quan mạnh thương yếu là giúp chồng xây dựng cơ đồ.
  • Quan, sát vượng làm dụng thần là chủ về chồng phú quý.
  • Quan, sát yếu, có tài sinh quan là giúp đỡ chồng được nhiều.
  • Quan, sát đóng ở trường sinh, không bị xung khắc là chồng trường thọ.
  • Người cô loan nhật phạm, chưa có con, khi gặp được quan tinh thì sẽ sinh được đứa con kỳ diệu.
  • Người bính hỏa bị chế ngự thì nhan sắc đẹp như ngọc; giáp bị kim khắc thì đẹp như hoa.
3. Xem chung vợ chồng
  • Nhật đóng ở đào hoa là vợ chồng đều đẹp, phong lưu, tài nghệ.
  • Thương quan bị thương tổn nặng, có hợp là lấy vợ, lấy chồng không cần cưới.
  • Thất sát bị chế ngự lại được tam tài là cao sang tột bậc.
  • Thực thần đơn độc là cuộc sống yên hòa, có con, thọ.
  • Trụ ngày tương sinh cho nhau là vợ chồng đằm thắm, can sinh chi là chồng yêu vợ, chi sinh can là vợ yêu chồng.
  • Đông kim đóng ở cục là vợ chồng đều có ý chí, tiếng thơm bay xa.
  • Hợp quý hợp tài là nhà đầy châu báu. Tỉ trước tài là nghèo trước giàu sau.
  • Thiên đức, nguyệt đức không bị những cái khắc làm nhiễu loạn thì người đó áo gấm mũ vàng.
  • Vợ chồng trụ năm tương sinh hoặc thiên hợp địa hợp thì bách niên giai lão.
  • Thực thần sinh vượng muốn có con phải cầu tự.
  • Nạp âm trên khắc dưới là có phúc, dưới khắc trên thì không nên, Nhật đóng ở trường sinh thì lấy được người đẹp.
  • Nhật nguyên bính tí là nam lấy vợ đẹp, nữ gặp chồng đẹp.
  • Nam nhật nguyên mậu ngọ là được các co’thích, nữ nhật nguyên mậu ngọ là được các bạn trai ưa.
  • Nhật đóng ở tài kho là giàu.
  • Bảy ngôi trong Tứ trụ đều được tương sinh là vợ chồng bách niên giai lão.
  • Tài vượng sinh quan là vợ chồng quấn quít với nhau, chồng xướng vợ tùy.

Ví dụ 1. Khôn tạo: Giáp tuất. Kỷ tị. Canh tí. Đinh hợi.

Ví dụ này tài, quan, ấn đểu có, người đó là cán bộ nghiên cứu chồng là cán bộ cao cấp. ứng với câu: Tài quan ấn thụ, tất vượng phu.

Ví dụ 2. Càn tạo: Tân mão. Kỉ hợi. Tân mùi. Kỉ sửu

Người này nguyên nhà rất nghèo, về sau điều lên công tác ở phía tây nam nên giàu và thăng chức. Như thế là vì: “Nhật đóng ở tài kho, ngưòi đó sẽ giàu”.

Ví dụ 3. Càn tạo: Đinh sửu    Nhâm tí    Nhâm ngọ    Canh tí   

Người này từ bé đã nghèo xơ xác, tuy công tác lâu năm nhưng vì lương thấp, con đông nên vẫn nghèo. Sau khi cải cách mở cửa được mười năm thì trở nên giàu, nhà cửa đầy đủ mọi thứ, giàu nhất vùng. Đó là vì “Nhật đóng ở tài tịnh, giàu lên nhờ vợ”.

Ví dụ 4. Khôn tạo: Bính tuất Tân sửu Đinh mùi Mão dần.

Tứ trụ này chồng là cán bộ cao cấp, bản thân thì vốn không phải con nhà nhàn hạ. Như thế là vì trong Tứ trụ có “nhất sát thanh thấu, “sát gặp mộ địa, tất lấy chồng phú quí”.

Ví dụ 5. Càn tạo:

Tân tị Bính thân    Quý mão    Giáp dần    Tứ trụ này nhật đóng quí nhân, nên “Vợ hiền lại đẹp, có uy vọng”.

Ví dụ 6. Càn tạo:

Đinh sửu    Tân hợi    Nhâm tuất    Ất tị

Tháng 4 năm 1991, khi tôi giảng bài ở Xingapo, một thương gia Inđônêxia giàu có nhờ đoán. Đoán việc nào đúng việc đó. Khi nói về hôn nhân, căn cứ theo: “Thương quan trùm ấn là ngưòi có vợ ban đầu là người giúp việc, sau thành vợ” tôi nói: ông có hai vợ. Người vợ thứ hai, khi đầu là người giúp việc, hơn nữa vợ hai vừa trẻ vừa đẹp”. Ông ta gật đầu lia lịa và nói: “Không sai chút nào”.

II. DỰ ĐOÁN HÔN NHÂN (2)

1. Mệnh nam không lợi cho vợ
  • Trong Tứ trụ có kình dương gặp tuế vận là của cải hao tán, khắc vợ, hại con. Trong cục có tài nhiều thì khắc vợ nặng, không có tài thì khắc nhẹ hơn.
  • Người trong Tứ trụ không có kình dương, hành vận đến lúc gặp kình dương thì hao tài và khắc vợ con.
  • Người thân suy, tài vượng là phá tài và làm tổn hại vợ.
  • Nam gặp ngang vai, kiếp tài là phá tài và làm thương tổn vợ.
  • Tài gặp mộ tuyệt là vợ có bệnh hoặc tính nết không hiền lành, hoặc VỢ đến tuổi cao vẫn còn tải giá.
  • Tài gặp đào hoa, mộc dục thì vợ. dễ bị người khác lôi cuốn.
  • Trong Tứ trụ có kiếp tài, kình dương là khắc cha, làm tổn thương vợ, hao tán của cải.
  • Thân vượng nhưng không có chỗ dựa là tổn thương vợ.
  • Nếu gặp thin, tuất, sửu, mùi nhiều là khắc vợ.
  • Tài, quan đều rơi vào tuần không, vong là tuổi trung niên mất con, khắc vợ, phải đi nơi khác kiếm ăn.
  • Thê gặp thê là có hai lần hôn nhân.
  • Sao thê mất lệnh là ly hôn giữa chừng.
  • Tứ trụ không có tài là người đi theo tăng đạo, khó có vợ, có con.
  • Trụ ngày không có tài là xa lìa vỡ.
  • Hỏa mạnh, thổ khô thì thân cô đơn, vợ khỏe thì mình Ốm.
  • Thân đóng ở ngang vai (anh em) để thành cục là mấy lần làm chú rể.
  • Cung thê hợp thành cục để khắc mình là có vợ nhưng khó giữ được vợ.
  • Cung thê bị hỉ thần xung thì tuy vợ đẹp nhưng khó bách niên giai lão.
  • Lệnh tháng, tài đóng ở tuyệt địa thì vợ nội trợ kém.
  • Gặp cả kình dương và kiếp tài thì phải lấy vợ lần nữa.
  • Trụ ngày, trụ giờ đều gặp thin tuất tương xung là vừa có vợ lẽ vừa nằm không.
  • Kình dương đóng ở trụ ngày thì vợ không hiền và hao tài.
  • Tài.yếu mà gặp kiếp lậ ba vợ mà vẫn vất vả.
  • Trụ ngày đóng ở thực thần lại còn gặp kiêu là vợ thấp, người gầy ốm.
  • Trụ ngày phạm hoa cái là khắc vợ.
  • Vong thần, thất sát là khắc con, hình phạt vợ.
  • Trong Tứ trụ giáp ất bính đinh liền nhau là không có lợi cho vợ.
  • Tài yếu, thân vương, tỉ kiếp nhiều là khắc vợ liên miên.
  • Tài phục dưới chi là có vợ lẽ hoặc tì thiếp.
  • Thiên tài trên trụ giờ gặp tỉ kiếp là vừa phá tổ nghiệp vừa làm tổn thương vợ.
  • Tài tinh đã bị tỉ kiếp, tuế vận lại còn gặp tỉ kiếp thì năm đó nếu không bị tổn thương tài, phá tài cũng sẽ bị kiện tụng.
  • Thất sát, kình dương trên trụ ngày, trụ giờ gặp kiêu thần là giữa đường gặp tổn thất.
  • Tài ở tử tuyệt mộ địa thì-suốt đời phiêu bạt.
  • Trạch mã đóng ở trụ ngày là vợ nhiều bệnh hoặc lười biếng.
  • Trụ năm, trụ ngày cùng ngôi thì lấy vợ cùng tuổi mới đỡ bị khắc.
  • Trụ ngày rơi vào hình địa là vợ nhiều bệnh.
  • Trụ ngày đóng ở mộc dục thì vợ đẹp nhưng khó tránh khỏi cãi vã.
  • Tài, ấn đều bị thương tổn là người khắc vợ, hại mẹ.
  • Trong Tứ trụ tài đóng ở cung khác là lấy nghĩa nữ làm vợ.
  • Trong Tứ trụ thương, kiêu đều có là con yếu, vợ ngu.
  • Tài tuyệt ở cung tù là muộn vợ, muộn con.
  • Tài thịnh lại gặp nhiều tỉ kiếp thì đề phòng cướp vợ em.
  • Trụ ngày gặp thất sát là chủ về vợ hung bạo, sát chồng.
  • Can ngày vượng, chi ngày là kình dương thì khắc vợ hoặc vì vợ mà phá sản.
  • Can ngày yếu, tài tinh nhiều là vợ không tuân phục chồng.
  • Ngang vai hợp với chính tài là vợ đoan trang nghiêm túc.
  • Tài tinh gặp tỉ kiếp lại không được cứu trợ thì đề phòng vợ gặp tai ương mà chết.
  • Chi ngày là thất sát, thiên ấn là vợ nhiều mà đẻ ít.
  • Chính tài, thiên tài đều vượng là vợ cả, vợ lẽ bất hòa.
  • Tỉ kiếp, nguyệt kiến vượng là tuổi trẻ đã chết vợ.
  • Tỉ kiếp, kình dương gặp hình, thường là chết trong chốn trần ai.
  • Tứ trụ gặp cả suy và tử là đến già vẫn sông cô đơn.
2. Xem nam nữ hợp nhau
  • Can chi của ngày giống nhau là hao tổn tài không lợi cho vợ chồng.
  • Chi ngày gặp hình hoặc bị xung khắc là nam không lợi cho vợ, nữ không lợi cho chồng.
  • Trụ ngày bị thương quan là vợ chồng không hoà thuận nhau, mình hay bị đối phương chửi.
  • Nam gặp thương quan là có hai lần kết hôn, nữ gặp thương quan là có tái giá.
  • Ngày lệch âm, dương là không có lợi cho hôn nhân, nam nữ gặp phải như thế tất sẽ tái hôn.
  • Ví dụ: bính tí, kỷ sửu, mậu dần, tân mão, nhâm thin, quý tị, bính ngọ, đinh mùi, mậu thân, tân dậu, nhâm tuất, quý hợi.
  • Nam gặp tỉ kiếp tất sẽ tranh vợ, nữ gặp tỉ kiếp tất sẽ tranh chồng.

Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ nội trợ tốt nhưng không hòa thuận:

  • Trong Tứ trụ 2 mậu hợp với 1 quý là phải lấy vợ hoặc chồng lần thứ hai.
  • Trong Tứ trụ thuần dương thì nam mất vợ, thuần âm thì nữ mất chồng.
  • Ngày giờ đối xung nhau thì vợ chồng bất hoà và không lợi cho con.
  • Nam gặp kình dương là lấy vợ hai lần, nữ gặp kình dương tất sẽ tái giá.
  • Cung thê bị khắc là không lấy chồng sớm, cung phu có khắc thì lấy vợ muộn.
  • Nếu mã phục ở dưới ngang vai (anh em) thì vợ chồng lấy nhau không giá thú.
  • Thất sát đóng ở trụ ngày thì vợ chồng bất hoà, không chia tay nhau sẽ gặp điều xấu.
  • Trụ năm của vợ hoặc chồng gặp thiên khắc, địa xung thì dễ có nỗi buồn sinh tử biệt ly.
  • Nhật phá, nguyệt xung thì không lợi cho ly hôn.
  • Nam hoặc nữ gặp ngang vai nhiều thì hôn nhân muộn, nhưng nếu thân ở vượng địa thì lại là tảo hôn.
  • Quan sát hỗn tạp, thương quan nhiều, nếu nam gặp phải là người ham mê tửu sắc, nữ gặp phải là người theo trai.
  • Chính tài, thiên tài nhiều là người háo sắc, chơi bời, vợ chồng bất hòa.
  • Nam ấn nhiều thì khắc vợ, nữ ấn nhiều thì dâm loạn.
  • Trong Tứ trụ có phu tinh, thê tinh hợp nhau là cuối cùng có sự ly biệt.
  • Giáp thin, giáp tuất, nam gặp hai ngày đó là khắc vợ, nữ gặp hai ngày đó là khắc chồng.
  • Nam hợp là chủ về tốt, nữ hợp là chủ về dâm.
  • Gặp phải vận thương quan là nam khắc vợ, nữ khắc chồng, gặp phải tuế quân bị khắc thì phải đề phòng vợ chồng đều bị tổn thương.
  • Cô loan nhập mệnh là chồng khắc vợ, hoặc vợ khắc chồng.
  • Nếu tháng sinh gặp hàm trì thì vợ chồng đều có ngoại tình.
3. Xem ly hôn

Ví dụ 1. Càn tạo.

Tháng 12 năm 1985 có một vị diễn viên nổi tiếng ở Trung Quốc nghe nói tôi có nghiên cứu về dự đoán học đã đến thử xem.

Vừa gặp tôi ông ta đã nói: “Thầy Thiệu, xin thầy đừng tức, tôi vốn xưa nay không tin tướng số, nay đến thử hỏi thày xem có thể đoán được chính xác không?” Tôi biết ông ta không có ác ý, nên cảm thấy rất thông cảm. Sau khi sắp xếp Tứ trụ của ông ta, tôi khẳng định rằng: hôn nhân của ông không thuận, năm 1982 nếu vợ ông không chết thì cũng đã ly hôn. Nghe xong ông ta rất phục và nói với mọi người có mặt ở đó rằng: thầy Thiệu dự đoán đúng quá. Năm 1982 chúng tôi đã ly hôn. Vì sao ông ta lại ly hôn? Vì trong Tứ trụ có can chi của trụ ngày giông nhau nên khắc vợ. Tân dậu là ngày âm dương lệch nhau, nam gặp phải sẽ lây vợ hai lần. Hơn nữa dậu tuất của ngày giờ tương hại lẫn nhau nên không lợi cho hôn nhân. Năm 1982 ông ta 46 tuổi, đại vận Canh tý là vận kiếp tài, lưu niên nhâm tuất là năm thương quan, lại còn nhật nguyên và thái tuế tương hại, nên là năm bại vận khắc vợ.

Ví dụ 2. Càn tạo.

Tháng 3 năm 1986, ông Hoa nói với tôi: ông có một người bạn thông minh tháo vát, nhưng hôn nhân trắc trở, trong vòng 10 năm từ 24 đến 33 tuổi ly hôn hai lần, có phải mệnh của ông ta khắc vợ không? Tôi nói: ông ta không những khắc vợ mà e rằng trong 10 năm đó là hành vận khắc vợ. Nếu không tin ông cứ nói giờ sinh tháng đẻ cho tôi biết thì tôi sẽ nói rõ.

Mấy ngày sau ông ta cho tôi biết ngày giờ sinh của bạn. Quả nhiên trong Tứ trụ có: “Nam gặp thương quan tất sẽ lấy vợ lần thứ hai”. “Tứ trụ gặp tỉ kiếp” và “ngày giáp thin” chính là tiêu chí khắc vợ. Từ 22 tuổi đến 33 tuổi chính là hành vận nhâm dần, giáp gặp dần mão tất sẽ khắc vợ. Lại còn nhâm sinh giáp nên ngang vai càng vượng, kiếp thê càng hung. Lưu niên tân sửu và giáp thin của ông ta lại là năm khắc vợ nên đã ly hôn hai lần.

Ví dụ 3. Càn tạo.

Ông Ngô, người mà thường được gọi là công tử đào hoa đã theo 5 cô, ly hôn 3 lần, lần thứ tư lại ly hôn. Để rút kinh nghiệm năm 1986 tôi đã lấy ngày sinh tháng đẻ của ông ta. Sau khi xem qua Tứ trụ thấy có “kình dương khắc vợ”, cung thê và thê tinh hóa thành hoả cục khắc thân, như thế gọi là “cung thê hợp cục để khắc thân, khó giữ được vợ”.

Ví dụ 4. Càn tạo.

Ngưồi này ly hôn năm 1986, nguyên nhân là trong Tứ trụ có “nhật đóng ở kình dương”, “thương quan”, “thê gặp mộ địa” đều là những tiêu chí thông tin khắc vợ.

Ví dụ 5. Càn tạo.

Tứ trụ này có thương quan, ngang vai, kình dương, tháng ngày xung lẫn nhau đều là dấu hiệu khắc vợ. Cho nên tôi đoán anh ta ly hôn năm 1974. Quả đúng như thế! Năm 1974 là năm giáp dần, trong Tứ trụ mộc hoả tương sinh, mộc của giáp dần lại trợ sức cho thế của hoả, thê tinh bị khắc, nếu không ly hôn thì dễ bị chết.

Ví dụ 6. Càn tạo.

Tháng 3 năm 1987 có một người ở xã Tây An nhờ tôi đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều lại trụ nhật, âm dương bị sai lệch, trụ tháng trụ ngày hình xung nhau nên khắc vợ rất nặng. Do đó tôi đoán: năm mậu ngọ (1978) phải ly hôn, năm mậu thin (1988) lại phải ly hôn nữa. Quả nhiên sự việc đã phát sinh như dự đoán, không những là lần ly hôn thứ nhất đúng vào năm 1978 mà lần thứ 2 cũng rất ứng nghiệm.

Ví dụ 7. Càn tạo.

Tháng 6 năm 1988 có người bạn đồng nghiệp đến thăm tôi, đưa cho Tứ trụ này nhờ tôi đoán.

Sau khi sắp xếp xong Tứ trụ, tôi nói: Tứ trụ này thương quan trùng lặp mà lại vượng, nên không những năm Đinh mão (1987) có họa ly hôn mà bản thân người này suốt đời vất vả, trước mắt đang ở trong hoàn cảnh rất khó khăn. Nghe xong anh ta nắm tay tôi vừa lắc vừa nói: Thầy Thiệu nói đúng quá. Không dám dâu thầy, đây là Tứ trụ của tôi, trước mắt tôi đang rất khó khăn. Tôi chỉ quen xem tướng, còn về Tứ trụ hiểu biết không nhiều. Trong Tứ trụ mão hợp với tuất đáng lẽ là tốt, năm đinh mão (1987) tuất hợp Thái tuế, tại sao lại ly hôn? Tôi đáp: 2 mão trong Tứ trụ hợp với 1 tuất lại còn gặp năm mão nên trở thành 3 mão hợp với 1 tuất đó là tượng tranh hợp. Vì thế, vợ anh bị người khác quyến rũ đưa đi. Mão là mộc, tuất là thổ nên trong hợp có khắc. Ba mộc khắc 1 thổ nên ứng nghiệm việc ly hôn.

4. Vợ mất

Ví dụ 1. Càn tạo.

Tháng 1 năm 1986 thầy Chu đưa Tứ trụ này đến nhờ tôi đoán. Xem xong tôi nói: người này đã 63 tuổi, là mệnh của một hoà thượng, trong mệnh không có vợ, nếu đã kết hôn thì từ năm 17 tuổi đến năm 26 tuổi chắc chắn đã chết vợ. Thầy Chu nói: đúng, vợ đã mất từ năm 24 tuổi. Tứ trụ này, thương quan, tỉ kiếp vượng, chắc chắn là khắc vợ. Trong Tứ trụ lại không có tài nên là mệnh của ngưồi đi tu, khó có vợ con.

Ví dụ 2. Càn tạo.

Tháng 7 năm 1986, tôi đến cơ quan trong thành phô’ giải quyết công việc có một người bạn chỉ vào một cán bộ nói với tôi: người này không tin vào dự đoán. Anh ta nói: chỉ cần anh đoán chuẩn một việc thì anh ta mới phục.

Lúc đó tôi rất bận, nhưng không có cách gì từ chối được, đành đoán vội đoán vàng để thỏa mãn yêu cầu của anh ta. Tôi nói với anh cán bộ đó rằng: mệnh của anh khắc vợ, khoảng năm 1963 có tang vợ. Anh ta liền nói: phục quá, phục quá? Đúng là vợ tôi đã mất năm 1962. Tứ trụ này tỉ kiếp trùng trùng, can chi’của nhật nguyên lại khắc nhau. Năm Nhâm quý là năm ngang vai kiếp tài. Năm nhâm dần (1962) đúng là tỷ kiếp gặp đất trường sinh nên chắc chắn vợ chết.

Ví dụ 3. Càn tạo.

Tứ trụ này vợ mất năm 1984 là năm giáp tý. Chính ứng với câu: “Nam gặp kình dương thì khắc vợ” và “Vận hành kình dương thì tài vận hao tán và khắc vợ”. Năm 67 tuổi đúng là năm đại vận kình dương, lại gặp kình dương xung khắc Tuế quân nên chắc chắn là mất vợ.

Ví dụ 4. Càn tạo.

Tháng 9 năm 1989 có một vị lãnh đạo đưa giò sinh nhờ tôi đoán. Tôi xem trong Tứ trụ thấy chính thê nhâm thuỷ lâm mộ kho gặp tuyệt địa. Năm Mậu thin (1988) đúng là nhâm thuỷ gặp tỷ kiếp vượng địa và mộ địa, nên nói với ông ta: “Nhất định sẽ có tang vợ”. Ông ta thừa nhận vừa mất vợ năm ngoái. Ông ta còn hỏi: việc hôn nhân về sau ra sao? Tôi nói: trong vòng 3 năm tới chưa nên kết hôn, năm nay cũng là năm kết hôn có hại. Ông ta nói: đúng là năm nay kết hôn lại cũng ly hôn rồi. Năm 1989 là năm Kỉ tị, thê tinh ở vào tuyệt địa, lại còn gặp tỉ kiếp vượng, nếu không ly hôn thì vợ cũng khó mà sống được.

Ví dụ 5. Càn tạo.

Tháng 5 năm 1991 có một nhà buôn Mianma biết tôi ở Băng Kốc đã vượt hàng nghìn cây số tìm đến nhờ đoán. Tôi xem Tứ trụ của ông ta rất nhiều tỉ kiếp, nhất định khắc vợ, đại vận dậu kim lại là kiếp địa. Năm Mậu thin (1988) gặp tiểu vận Nhâm thin trong Tứ trụ lại có thin thổ, 3 thin khắc cung hôn nhân tý thuỷ cho nên đoán: chắc chắn vợ ông ta mất năm 1988. Ông ta nghe xong vừa kinh ngạc, vừa thương tiếc khóc nói: “Vợ tôi vừa mất năm 1988”.

Ví dụ 6. Càn tạo.

Khôn tạo đinh hợi.

Năm 1991, lúc tôi dạy học ở Quế Lâm có một cán bộ đến nhờ đoán. Tôi thấy Tứ trụ người đó có tân tị, năm mệnh của vợ là Đinh hợi, vì đại mệnh tương sinh đáng lẽ vợ chồng đằm thắm sâu sắc, nhưng vì trụ năm của hai người phạm thiên khắc, địa xung nên vợ mất năm 1986.

III. DỰ ĐOÁN HÔN NHÂN (3)

1. Mệnh nữ không lợi cho chồng con
  • Nữ gặp thương quan là tượng khắc chồng tái giá, nếu gặp hợp nhiều thì đó là người đàn bà ti tiện, hoặc dâm ô, hoặc trộm cắp.
  • Ất canh tương hợp là người đàn bà tuy dung mạo đẹp nhưng khắc chồng, hình phạt con.
  • Nữ gặp quan sát hỗn tạp là người khắc chồng tái giá.
  • Thương quan gặp quan thì không những khắc chồng mà bản thân còn vất vả, nếu không làm hại chồng thì cũng là người bệnh hoạn, người ít phúc đức, cuộc sống không yên ổn.
  • Thiên can thấu quan sát, địa chi không có quan sát lại còn gặp đất tử tuyệt, đó là người làm suy kiệt chồng, cuối cùng đi làm vợ lẽ.
  • Nữ tài phải ít, nếu tài nhiều thì dâm loạn.
  • Tài và quan cả hai đều có thì khi hành vận gặp cả quan lẫn kiếp tài sẽ khắc chồng, qua vận mới nên lấy chồng (hoặc nên lấy chồng muộn).
  • Thương quan trùng trùng tất sẽ khắc chồng và tính cách ngang bướng.
  • Nữ mà quan tinh nhiều thì làm hại chồng.
  • Nữ mà thực quan ít thì chồng suy, con vượng.
  • Nữ vận hành đến đất tỉ kiếp thì làm trỏ ngại chồng, khắc cha.
  • Quan tuyệt hưu tù thì cô quả, đơn độc.
  • Nữ có kình dương là khắc chồng, chắc chắn tái giá.
  • Nữ Tứ trụ gặp thương nếu lấy chồng gần thì sẽ khắc chồng, gặp xung, kiêu, ấn, nếu không ly dị thì dễ chết.
  • Nữ chỉ có 1 quan tinh là tốt, nhiều quan tinh là tượng tái giá lấy chồng nhiều lần.
  • Kiêu, ấn trùng trùng là người vợ dễ tử biệt sinh ly.
  • Trong Tứ trụ có một quan tính là tốt, quan tinh nhiều thì tái giá.
  • Trong Tứ trụ không có quan tinh, không làm vợ lẽ thì cũng là vợ kế.
  • Tài quan nhập mộ là người không làm hại con thì cũng khắc chồng.
  • Tài quan lâm tử tuyệt là ngưòi phụ nữ cô quả đói nghèo.
  • Tài quan đều rơi vào tuần không vong là gây hại cho chồng, phải bỏ đi phương xa.
  • Trong Tứ trụ có cả kiêu thực cùng với thương quan là hại con, khắc chồng.
  • Mậu sinh vào ngày quý là quan, tuổi trẻ đã lây phải chồng già.
  • Trong Tứ trụ nếu gặp cả hợi, dậu thì không lấy chồng là tốt nhất.
  • Nữ không có tài, quan, thực ấn thì ngưòi đó cuộc sống không vất vả cũng là làm nghề ca kỹ.
  • Trong Tứ trụ quan nhiều mà rõ, tài phục mà vượng lại còn có sát là người nhờ tửu sắc tư tình mà được của.
  • Nữ thuần dương, thuần âm thì sáng trong như ngọn nến.
  • Quan nhẹ, tỉ nặng (quan ít, tỉ nhiều) không làm vợ lẽ thì cũng làm tà thiếp.
  • Tứ trụ gặp hình, tuần không, quan, sát là người phải tái giá nhiều lần.
  • Tứ trụ quan quý quý nhiều, nếu không làm vợ lẽ thì cũng làm vũ nữ.
  • Trụ ngày kình dương gặp sát, nếu không làm vợ lẽ thì cũng là ni cô.
  • Trụ tháng nhiều thương quan nếu không làm nô tỳ thì cũng nhiều lần tái giá.
  • Quan tinh nhập mộ là chồng chết, tái giá. Tuế vận nhập đất tử tuyệt là tượng ly hôn.
  • Tỉ kiếp trùng trùng là tượng tranh cướp chồng.
  • Ân nhiều là đến già vẫn chưa có con; thương quan vượng là mất chồng sớm.
  • Thương quan nhiều nhưng lại không có tài ấn là khắc chồng và làm bại gia.
  • Ngày giồ tương hình là khắc chồng, khắc con.
  • Phu tinh mộ tuyệt là trùng hôn tái giá.
  • Nữ kỵ nhất là 1 kỷ 2 giáp, 1 ất 2 canh, 1 tân 2 bính, 1 đinh 2 nhâm, 1 quý 2 mậu.
  • Nữ gặp quan đế đều vượng là chủ về tượng vợ chồng làm tổn hại nhau, trùng hôn tái giá.
  • Mệnh nữ ngày sinh, năm sinh cùng một ngôi là khắc chồng tái giá.
  • Ngày, giờ có sao Hoa cái gặp ấn là người khó có chồng con.
  • Mệnh nữ gặp thương quan là không có phúc; không có tài, không có ấn là cô đơn, nghèo đói.
  • Không có tài, không có ấn thấu thương quan là làm người ở.
  • Nữ gặp tỉ kiếp nhiều là chồng tuyệt nghĩa với vợ.
  • Sát vượng mà gặp kho tàng thì chỉ làm vợ kế.
  • Quan tinh gặp thương không có ấn là tượng khắc chồng.
  • Trong trụ không có thực, quan là không có chồng.
  • Quan sát vượng quá lại không bị chế ngự là chồng không theo lời vợ.
  • Quan sát nhược quá còn bị xì hơi, tài tinh vô lực là chồng nhu nhược không làm được việc gì.
  • Chi ngày là thất sát, hoặc thất sát vượng, không bị kiềm chế là chồng hung bạo.
  • Ngày giờ thin tuất tương xung phải đề phòng chồng có ngoại tình.
  • Thân vượng mà không có quan sát là người háo sắc khắc chồng.
  • Mệnh nữ trụ ngày là giáp dần, mậu thân thì khắc chồng rất mạnh.
  • Mệnh nữ tài quá yếu thì khó giúp đỡ được chồng.
  • Mệnh nữ dương can thực thần nhiều là người hát xướng; âm can thực thần nhiều là người kỹ nữ.
  • Mệnh nữ trong Tứ trụ đinh gặp nhâm nhiều đó là ngưồi dâm loạn.
  • Phu tinh vượng, tử tinh suy, tất khắc con; tử tinh vượng, phu tinh suy, tất làm hại chồng.
  • Trong Tứ trụ chỉ có một phu tinh, hai tài tinh thì gọi là ngưồi tranh chồng; nếu chính tài vượng thiên tài suy thì mình làm vợ cả, người kia làm vợ lẽ, ngược lại là mình làm vợ lẽ.
  • Phu tinh không vượng lại còn bị khắc chế là người lấy chồng muộn, hoặc lấy chồng bất minh, lén lút.
  • Tham tài, làm hỏng ấn là người phụ nữ bất lương (tài nhiều, ấn ít).
  • Tài tinh nhiều là khắc chồng: thân ở vượng địa là giàu mà khắc chồng con.
  • Tứ trụ có quý nhân còn gặp trạch mã là người đẹp, phong lưu, khéo.
  • Người hợp quý nhiều thì ngưồi đẹp, đa tình, nhưng thấp hèn.
  • Đào hoa mờ, mộc dục rõ không làm người đi tu cũng là người ở chùa.
  • Tí, ngọ, mão, dậu đều có là ngưòi ham mê tửu sắc, hoang dâm. Dần, thân, tị, hợi đều có là người phụ nữ thông minh.
  • An tĩnh nhiêu là người đó không bị chết thì cũng có cảnh chia ly.
  • Mệnh nữ có quan tinh khi hành đến quan vận thì sẽ khắc chồng.
  • Trong Tứ trụ kim thanh, thủy lạnh là người khó lấy chồng.
  • Thổ táo, hỏa mạnh thì phòng không lạnh lẽo.
  • Quan nhiều, ấn nhiều là người cô đơn.
  • Tài suy, ấn tuyệt là lấy chồng sớm (tảo hôn).
  • Tứ trụ gặp tam hình, gặp quan quỷ là khắc con hại chồng.
  • Thủy tụ vượng là người con gái lẳng lơ.
  • Lục hợp cùng với tam hình là người hại chồng, làm bại gia nghiệp.
  • Phá tài, phá ấn là người khó lấy chồng.
  • Xung quan hợp thực (thần) thì hình phạt chồng, sống nương tựa vào con.
  • Quan tinh được lệnh mà gặp thượng là người làm ni cô.
  • Trụ ngày là kình dương lại gặp sát là người không làm vợ lẽ thì cũng đi tu.
  • Chỗ ngang vai trong lục thân mà lộ ra chị em tất có chuyên tranh chồng.
  • Trong Tứ trụ toàn tỉ kiếp, quan địa thì chắc chắn có chuyện tranh chồng.
  • Phu tinh vượng, quan tinh được lệnh, kiêu thần mạnh thì hại con.
  • Năm và ngày tương xung nhau thì không nên sinh đẻ.
  • Mệnh đào hoa là người phụ nữ rất dâm.
  • Thân vượng, quan tinh hung thì người đó không đi tu cũng làm nghề ca kĩ.
  • Thực thần gặp kiêu thần nhiều, can của năm sinh là thương quan, giờ là kình dương, hình xung khắc hại, lưu niên và các vận xung hợp kiêu thần, kình dương thì nhất định sinh đẻ khó khăn, trắc trở.
  • Phạm tam hình lục hợp, vong thần kiếp sát, cô thần quả tú là người sát chồng, khắc con.
  • Nữ gặp quan đế vượng là người còn trinh nguyên.
  • Quan tinh ngày sinh gặp tử tuyệt mộ địa là người phụ nữ khắc chồng.
  • Quan tinh gặp tuần không vong, ngày sinh vô khí là người không có chồng, nếu có thì cũng luôn luôn sợ chết chồng.
  • Kim thần gặp giáp là người khắc chồng.
  • Người trong Tứ trụ có thân tí thin lại gặp nhầm quý là người không tiết hạnh.
  • Người đào hoa gặp kiếp sát là người độc ác, dâm ô, phá hại gia nghiệp, trẻ thì làm nghề linh tinh, già thì cô đơn nghèo khổ.
  • Hàm trì và đại hao cùng cung với nhau là người độc ác, gian dâm.
  • Người gặp mão dậu nhiều là người hay sẩy thai, khắc con. Hay đau nhức về bệnh máu.
  • Phu tinh đắc địa là ngưòi nhiều con.
  • Nhật đóng ở thương quan là ngưòi hay chửi chồng. Người như thế nên lấy chồng già làm mẹ kế hoặc vợ lẽ.
  • Trong Tứ trụ tân là quan tinh, có sửu là phu (chồng) kho nếu gặp nhiều tân là người đã chết chồng.
  • Nữ gặp tí ngọ mão dậu là người theo trai làm vợ.
  • Nữ ngày giờ sinh gặp khôi canh là hại chồng khắc con.
  • Nữ mệnh thuỷ gặp thổ nhiều là người sống cô đơn.
  • Cung phu có khắc là lấy vợ muộn, cung thê có khắc là lấy chồng muộn.
  • Nữ phạm thương quan, nếu không lấy chồng xa thì sẽ khắc chồng, gặp xung khắc kiêu thần nếu không chia tay thì khó sống lâu.
  • Nữ phạm thương, thiên, ấn thì không lợi cho chồng con.
  • Quan sát nhiều mà không gặp tài là vợ không kính chồng, cướp quyển chồng.
  • Quan tuyệt, hưu tù là người cô đơn quả tú.
2. Ly hôn

Ví dụ 1. Khôn tạo

Tháng 3 năm 1984 ngưòi phụ nữ này nhờ đoán. Tôi xem trong Tứ trụ thấy kiêu thương tỉ kiếp đều có, lại còn thêm âm dương sai lệch, trụ ngày có khôi, canh, đại vận lại gặp khôi canh nên chắc chắn phải kết hôn hai lần. Năm ất tị 1965 đúng là thương quan gặp thương quan có hại, vì kỉ thổ quan tinh ở vượng địa, chồng khoẻ không đến mỗi chết cho nên đoán ly hôn. Quả nhiên đúng thế.

Ví dụ 2. Khôn tạo

Tứ trụ này thương quan hai rõ ba mờ, thương vượng nhiều, chắc chắn là khắc chồng. Quả nhiên năm 1975 cô đó ly hôn. Năm 1975 cô ta 41 tuổi, hành đại vận giáp tí, gặp lưu niên ất hợi, kiêu ấn đều vượng, đó là năm ly hôn, chính ứng câu: “Kiêu ấn trùng trùng là ngưòi phụ nữ tử biệt sinh ly”.

Ví dụ 3. Khôn tạo

Tháng 2 năm 1985 cô Mai nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thân ở đất đế vượng, thân vượng, kiêu ấn lại nhiều, kình dương nhiều chắc chắn là người phụ nữ khắc chồng, tái giá. Cho nên đoán: năm nhâm tí 1972 có ly hôn. Sự thực đúng thế. Ly hôn năm 1972 là vì đại vận nhâm dần, lưu niên là nhâm tí tỉểu vận là ngang vai, thân gặp đế vượng tất khắc chồng, lại kình dương trùng lặp với tuế quân. “Kình dương gặp tuế quân là đột nhiên hoạ đến”. Nếu không ly hôn thì nhất định gặp hoạ.

Ví dụ 4. Khôn tạo

Mùa thu năm 1985 cô Trương đến nhà nhờ đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ thân vượng, sát vượng là vợ chồng xung khắc, cung phu sửu thổ là dậu sửu bán hợp, lục hợp với tí sửu là cuộc hôn nhân trước nóng sau lạnh, trước hợp sau tan. Nên năm 1972 ly hôn, năm 1978 ly hôn lần thứ hai.

Ly hôn năm nhâm tý 1972 là vì: đại vận đinh sửu ngang vai khắc chồng, lưu niên nhâm tý chính là hai sửu hợp với 2 tý, tức là chồng hợp với người khác. Năm 1978 lại ly hôn vì đại vận mậu dần là đất thương quan, lưu niên mậu ngọ là chỗ thương quan, “Thương quan vượng địa là người khắc chồng”.

Ví dụ 5. Khôn tạo

Tháng 11 năm 1988 khi tôi đang giảng bài ở Nam Kinh có một vị đại sứ nước ngoài nhờ tôi đoán vận cho ông ta và người nhà. Khi tôi sắp xếp Tứ trụ con gái của ông, thấy trong Tứ trụ tỉ kiếp rất nhiều, cung phu tương hình nên khắc chồng rất nặng. Do vậy đoán năm 1975 nhất định phải ly hôn. Quả đúng tháng 5 năm 1975 vừa lấy chồng thì tháng 7 đã ly hôn. Năm 1975 ly hôn là vì: trong Tứ trụ rất nhiều tỉ kiếp, điều đó ứng với câu “Tỉ kiếp trùng trùng là chồng không còn tình nghĩa với mình”.

Ví dụ 6. Khôn tạo

Tháng 7 năm 1987, tôi đến núi Phổ Đà là một thắng cảnh của Phật giáo có 1 nữ thanh niên biết tôi đã nhờ tôi đoán giúp. Tôi thấy trong Tứ trụ, tỉ, kiếp mỗi bên 1 nửa, cung chồng khắc thân đó là tượng người phụ nữ lấy chồng muộn nhưng lại sớm chia tay. Do đó tôi nói với cô ta: cô lấy chồng muộn, nhưng không suôn sẻ. Theo Tứ trụ của cô thì năm kết hôn cũng là năm ly hôn. Năm 1986 có tai hoạ đó, cô ta thừa nhận: đúng nhự thế!

Năm 1986 ly hôn là vì: gặp đúng đại vận bính thin, lưu niên bính dần là ấn thủ vượng địa cho nên có việc ly hôn. Đúng là “Tỉ kiếp trùng trùng là kết hôn 2 lần”. Trong hai ví dụ 4 và 5, tỉ kiếp rất nhiều, nhưng là hai cô ở hai nước khác nhau thế mà tai họa trong hôn nhân lại giống nhau nên có thể nói Tứ trụ dự đoán học đoán ở đâu cũng đúng.

Ví dụ 7. Khôn tạo

Đây là Tứ trụ của một diễn viên điện ảnh nổi tiếng của Trung Quổc, mùa xuân năm 1990 khi tôi ở Thượng Hải cô đã khẩn thiết nhờ tôi đoán. Tôi xem trong Tứ trụ không thấy có quan tinh, tức là “không phải là vợ lẽ thì cũng là vợ kế, nên ly hôn tái giá là điều chắc chắn”. Xem đại vận thấy gặp thương quan, lưu niên bính dần lại là lúc “thương quan gặp quan” nên khắc chồng, do đó tôi nói: năm 1986 có chuyện ly hôn, nếu không ly hôn thì chồng chết. Cô ta nói: năm 1986 đã ly hôn. Xem ra đó là điều may mắn vì đã cứu được một sinh mạng.

3. Mất chồng

Ví dụ 1. Khôn tạo

Mùa xuân năm 1984, một thầy thuốc nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ tỉ kiếp nhiều lại gặp đế vượng, phu tinh tí thuỷ lại gặp hưu tù, thương quan lại vượng, tức là phu tinh có khắc không có sinh nên chắc chắn là chết. Do đó tôi đoán chồng chết năm 1969 tức năm kỉ dậu thương quan. Thực tế đúng thế.

Ví dụ 2. Khôn tạo

Mùa đông năm 1986,một diễn viên kịch nói nổi tiếng của Trung Quốc đến nhà nhờ tôi đoán. Trong Tứ trụ của bà có: “Tứ trụ thuần âm là tượng khắc chồng tái giá”, “thực kiêu cũng gặp thương quan là nếu có chồng thì chồng chết”, nên tôi đã đoán: nếu chềng bà không chết năm 1970 thì chết năm 1971. Bà nói: đúng, chồng mất năm 1970. Chết năm 1970 là vì đúng với câu: “Kiêu ấn trùng lặp là người phụ nữ có tử biệt sinh li”.

Ví dụ 3. Khôn tạo

Tháng 1 năm 1986 có một phụ nữ thồng qua Lô Chí Tần nhờ tôi đoán vận. Tôi thấy trong Tứ trụ của bà, thương quan trùng lặp nhiều nên nói: cuộc đời của bà khổ nhất là việc hôn nhân không thuận, chồng mất liên tiếp, vừa tái giá lại tái giá. Năm 1984 lại vừa gặp nạn mất chồng. Bà ấy vừa khóc vừa nói: người chồng thứ nhất của tôi mất năm 1959, người thứ hai mất năm 1984.
Chồng mất năm 1984 là vì nguyên nhân: ba thương hội tụ ở vượng địa.

Ví dụ 4. Khôn tạo

Đầu năm 1984, có một người Hồ Bắc đến nhờ tôi đoán. Xem trong Tứ trụ thấy thực nhiều, kiêu mạnh, kiêu thực -đều có đó là thông tin chồng mất rất rõ. Hiện nay đại vận canh ngọ gặp đất kiêu, năm giáp tí 1984 là năm có 3 thực, 4 kiêu tranh đoạt thực rất kịch liệt, nên năm 1984 có tai hoạ mất chồng. Tôi đã bày cho cô ta cách giải, nhưng cô không làm theo. Về sau tháng 8 năm 1984 thì báo thấy có tang: ngày 3 thống 3 người chồng bỗng nhiên bị chết.

Ví dụ 5. Khôn tạo

Mùa xuân năm 1987 khi tôi lên Bắc Kinh gặp một người phụ nữ có chức vụ khá cao đã nhờ tôi đoán vận với thái độ xem thường việc đoán. Tôi thấy bà rất tự phụ,’Vấn không muốn đoán nhưng để muôn chứng minh rằng Chu dịch dự đoán học và Tứ trụ dự đoán học là có cơ sở, nên tôi cũng sắp xếp Tứ trụ và đoán luôn. Vừa vào đầu đã nói đứng yếu điểm của bà ta: năm 1974 bà bị chết chồng. Nghe xong bà ta rất phục. Đại vận của bà ta là Giáp dần, lưu niên cũng là giáp dần, là tam quan cùng tương ngộ, hội tụ, tức ứng với câu “Nữ có quan tinh lại gặp quan vận, tất sẽ khắc chổng”.

Ví dụ 6. Khôn tạo

Tháng 5 năm 1991 khi tôi ở Băng Cốc- Thái Lan có một bà họ Từ là đại thương nhân, tuy tuổi đã quá 60 nhưng tinh thần vẫn rất sung mãn, cười nói hoạt bát có duyên, tiếp khách nhiệt tình, cởi mở. Bà ấy đã đưa Tứ trụ ra nhờ tôi đoán.’Xem xong Tứ trụ tôi nối luôn: Tứ trụ của bà không cố quan tinh là suất đời tự do thoải mái, đi về một minh. Trong hôn nhân bà trước hết là tỳ thiếp sau. mới làm vợ. Năm 1969 thì mất chồng. Bây giờ giàu có và quyền thế đã ràng buộc bà. Nghe xong bà liền giơ ngón tay cái: Thầy Thiệu là người thần, đoán đúng hết. về hôn nhân thì bà là người vợ thứ 3 và chồng đã mất năm 1969. Chồng mất năm kỷ dậu (1969) là vì: kiêu, ấn đều vượng lại gặp tuế vận, lại còn gặp kiêu thần. Điều đỗ ứng với câu: “Tứ trụ không có quan tinh không làm vợ lẽ thì cũng làm mẹ kế’.

Mục 2 và mục 3 ở trên đều nói về những tiêu chí thông tin vả cấc sự việc khắc vợ, khắc chồng Họa khắc vợ khắc chổng là điều mọi người rất quan tâm. Nhưng tai họa đó có thể hóa giải được không? Điếu đó phải xem hoàn cảnh cụ thể của người ấy, cố người hóa giải được, có người không. Ví dụ về ly hôn mà nói, ai cũng hy vọng không xảy ra việc đó và xem nó như là một tai họa trong đời người, nhưng thực tế có lúc ly hôn lại cũng không phải hoàn toàn là xấu. Vì hai vợ chồng khí âm dương ngũ hành bất hòa từ lúc khắc nhau phát triển đến giai đoạn đối kháng, trọng thời gian đó hai vợ chồng ngoài những lúc bực tức, tranh cãi, đánh nhau, làm việc gì cũng không thành, tuy rằng việc ly hôn còn do nhiều nguyên nhân gây ra nữa nhưng cũng ít thấy việc ly hôn lại do cãi nhau, mà điều chủ yếu là do sự đối kháng của khí âm dương bất hòa nên cuối cùng dẫn đến hôn nhân tan vỡ. Cuộc hôn nhân bất hòa có trường hợp sức khắc mạnh mẽ, nếu không ly hôn thì một bên sẽ chết, tuy nhiên cái chết đó là do nguyên nhân bên ngoài hoặc bệnh tật gây đến, nhưng thực chất là do mệnh vận tác động sai khiến. Cho nên có những cuộc ly hôn không những cứu được một mạng người mà sau khi ly hôn mỗi ngưòi đều tìm thây những người bạn tương, sinh, tương hợp với mình, làm cho hai khí âm dương trong cơ thể được cân bằng, tình cảm thoải mái, thúc đẩy sự nghiệp phát triển, có công hiến cho xã hội.

Trong vấn đề ly hôn không phải hai bên đều tự nguyện mà thường một bên hay nói có chết cũng không ly hôn. Đối với các trường hợp như thế có thể tìm cách hóa giải để giải họa. Ví dụ tôi đã dùng phương pháp giải cứu cho nhiều cuộc ly hôn có hiệu quả tốt. Dưới đây cử vài ví dụ.

Càn tạo:

Tháng 3 năm 1985, gặp một trường hợp đòi ly hôn nhau, thòi gian khá dài. Lãnh đạo và bạn bè đã khuyên hết lòi, nói: ông đã hơn 50 tuổi, con cháu đều có, đòi ly hôn không sợ người đời cười hay sao. Nhưng ông ta vẫn một mực không nghe. Cuối cùng ông ta nghe người khác khuyên đến nhờ tôi hóa giải.

Tôi xem trong Tứ trụ ông ta thấy ngang vai nhiều, kình dương lại gặp vượng địa, nhật nguyên là mậu dần, năm và lệnh tháng xung khắc thê tinh rất nặng. Trên Bát quái thông tin khắc vợ cũng rất rõ nên từ rất sớm đã ly hôn 1 lần. Lần ly hôn thứ hai sẽ xảy ra vào năm bính dần – (1986) là không nghi ngò gì nữa.

Nhưng tôi thấy sự khắc vợ của ông ta tuy hung nhưng có thể hóa giải được và đã bày cho ông ta cách giải. Kết quả người chồng càng bình tĩnh và cuối cùng quan hệ vợ chồng tốt dần. Bạn bè người quen ai cũng rất ca ngợi.

Còn có một biện pháp đơn giản nữa: nếu vợ chồng đòi ly hôn thì tạm thời ly thân ở riêng ra, sau một thời gian vận khắc nói chung dài từ 5 đến 10 năm, vượt qua vận đó là sẽ tránh được họa.

IV. BẢNG CHỌN NĂM PHỐI HÔN TỐT NHẤT CỦA NAM NỮ

Cho dù vạn vật và các sự việc trên thế gian vô cùng phức tạp, nhưng nếu quy về khí thì chỉ có hai khí âm dương, quy về chất thì chỉ có 5 loại: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Do đó âm dương ngũ hành khống những là các vật chất cơ bản cấu tạo thành thế giối mà côn là nguyên nhân căn bản của sự tồn tại, phát triển, hưng vượng, suy bại của vạn vật.

Sự hưng vượng và suy bại của vạn vật, vạn việc trong thế gian đều là do sự sinh khắc chế hóa của âm dương ngũ hành gây ra. Con người cũng không ngoài quy luật đó, tức cũng có kim mộc thuỷ hoả thổ. Cho nên con người cũng phải theo quy luật sinh khắc chế hoả cửa âm dương ngũ hành.

Nam là dương, nữ là âm, nam nữ đều có 5 loại mệnh là kim, mộc, thuỷ, hỏa, thổ. Do đó sự hôn nhân của nam nữ thực chất là kết quả tương sinh tương hợp của âm dương, ngũ hành. Từ những ví dụ ở phần trên trong sách này, ta có thể thấy rõ, vì sao có những cặp vợ chồng ái ân đằm thắm, bách niên giai lão; nhưng cũng có những cặp vợ chồng ban đầu tình sâu nghĩa nặng, đến giữa chừng lại bị chia lìa; vì sao có những cặp vợ chồng trước hợp sau tan, trước yêu nhau sau trở nên thù địch, tuyệt tình, tuyệt nghĩa. Đó tất cả đều là kết quả tất yếu của sự sinh khắc trong hôn nhân của âm dương ngũ hành.

Tổ tiên chúng ta dể làm cho cuộc sông của mọi ngưòi được hạnh phúc, trong việc hôn nhân nam nữ đã có những nghiên cứu sâu sắc và đưa ra những cống hiến to lớn. Sau khi Kinh dịch ra đời người xưa đã dùng Bát quái để dự đoán hôn nhân tốt hay xấu. Sau khi thiên can địa chi được đưa vào Tứ trụ để dự đoán và 12 con vật cầm tinh được phát hiện thì sự nghiên cứu về hồn nhân càng đạt được kết quả nhiều hơn và để lại những di sản văn hóa quý báu cho đời sau. Sự nghiên cứu đó đại để được chia làm ba loại: Thứ nhất là theo âm dương ngũ hành lấy năm mệnh tương sinh tương khắc làm chính. Ví dụ: nam mệnh kim, nữ mệnh thổ vì thổ kim tương sinh cho nên phối hôn là tốt. Thứ hai là lấy 8 chữ của nam nữ hợp nhau để cân bằng ngũ hành. Ví dụ: Tứ trụ của nữ, thương quan nhiều thì nên phôi với nam Tứ trụ tỷ kiếp nhiều để đề phòng nữ

khắc Dâm. Cho nên đời xưa khi đính hôn thường phải hợp Tứ trụ là có căn cứ khoa học. Thứ ba là: theo 12 con vật cầm tinh tương hợp với nhau để tiến hành phôi hôn. Nếu những con vật cẩm tinh đó xung hại bất hòa với nhau thì không thể phối hôn. Ví dụ trong sách: “Vạn bảo ngọc hạp kí kim thư” có ghi lại câu ca không lợi cho kết hôn như sau: “Xưa nay bạch mã sợ thanh ngưu, dê chuột gặp phải thì xấu ngay. Rắn gặp mãnh hổ như bị dao cắt đứt, lợn gặp khỉ thì không lâu dài. Rồng gặp thỏ thì nửa chừng đứt gánh, gà gập chó thì nước mắt chảy quanh”.

Những phương pháp phổi hôn như thế vào thời đó đã có một tác dụng to lớn để làm cho các cuộc hôn nhân được mỹ mãn, xây dựng một gia đình hạnh phúc. Đó là những giá trị rất thiết thực của thành quả nghiên cứu về phương pháp phôi hôn nam nữ mà cho đến ngày nay vẫn còn được coi trọng.

VI sự phôi hợp nam nữ có tính khoa học rất sâu sắc và huyền diệu, nhưng do xã hội không coi trọng nó, không nghiên cứu cho nên vấn đề phôi hôn nam nữ đã không được giải quyết tốt đẹp.
Mặt khác còn vì trong phôi hôn người ta không làm theo khoa học hoặc chỉ dựa vào cảm tính bồng bột nên đã dẫn đến bi kịch khắc vợ chồng không những gây ra thảm kịch vì hôn nhân mà tỉ lệ li hôn ngày càng cao. Tôi trong nhiều dự đoán về hôn nhân đã, phát hiện thấy khoảng 80% các cuộc hôn nhân đều không suôn sẻ.

Chết vì hôn nhân và ly hôn đã tạo nên sự tan nát gia đình và do đó đã đem đến cho xã hội một loạt vấn đề nan giải, làm cho Nhà nước phải chú ý đến những mặt có liên quan đến hôn nhân và cũng dẫn đến sự lo lắng cũng như sự thận trọng cửa xã hội đối với hôn nhân. Ví dụ: các chuyên gia ở Nhật Bản và Xingapo đều tích cực tìm kiếm những biện pháp để giải quyết về mặt này. Một số chuyên gia Nhật Bản cho rằng nam nữ phối hôn về tuổi tác nên chênh nhau khoảng 15 tuổi là tốt, tức nam cao tuổi hơn nữ.

Trong vấn để hôn nhân, qua thòi gian dài quan sát và nghiên cứu tôi phát hiện thấy tuy chết do hôn nhân hoặc ly hôn có rất nhiều nguyên nhân, nhưng không hoàn toàn là do mệnh năm tương khắc tương hình nhau, hoặc các cầm tinh con vật tương hại nhau mà mệnh năm tương sinh, cầm tỉnh tương hợp cũng vẫn có sự khắc vợ khắc chồng. Nam nữ phạm khắc chiếm tỷ lệ lớn nhất là do hung thần ác sát trong Tứ trụ và can chi trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc, địa xung là chính.

Qua thực tiễn tôi cũng phát hiện những cặp vợ chồng tương thân tương ái với nhau từ đầu đến cuối hoặc giữa họ có sự tranh cãi lẫn nhau nhưng vẫn chung sống với nhau đến già (đòi xưa cho rằng sau 60 tuổi mà hôn nhân tan vỡ thì không phải là khắc hại nữa), trong đó chủ yếu nhất và cũng là điều quan trọng nhất chính là trụ năm của vợ chồng tương sinh, tương hợp. Thiên hợp địa hợp thì không còn sợ mệnh năm tương khắc hoặc cầm tinh tương hình, hoặc trong Tứ trụ có hung sát.

Vì sao trụ năm của hai vợ chồng tương sinh tương hợp thì không sợ khắc hoặc xung khắc đối kháng. Đó là vì trụ năm là cơ bản, là rễ của hai cây đã tương sinh tương hợp thì tất nhiên gốc rễ của cây ổn (tịnh vững chắc, không dễ chia ly, không sợ khắc hại. Ngược lại, nếu trụ năm của vợ chồng phạm thiên khắc địa xung thì cho dù mệnh năm tương sinh, trong Tữ trụ sát tinh tuy ít nhưng xà rễ cây đã bị tổn thất, tất nhiên là rễ khô, cây chết, dẫn đến bi kịch hôn nhân. Để nói rõ trụ năm tương sinh, thiên hợp địa hợp thì không sợ khắc hại, dưới đây xin cử mấy ví dụ làm chứng.

Ví dụ 1. Càn tạo

Khôn tạo: Giáp dần.

Càn tạo quý thuỷ thương quan ở đất trường sinh, thực thần xuất hiện hai lần (thực nhiều là thương), can chi trụ ngày giống nhau là khắc vợ rất nặng. Nhưng vì trụ năm vợ chồng tương sinh cho nên vợ chồng trường thọ mãi đến nay vẫn còn mạnh khoẻ.

Ví dụ 2. Càn tạo

Khôn tạo: ất dậu Càn tạo thê tinh ở mộ địa mà bị khắc, ngày giờ tương xung nhau đó là tượng khắc vợ, phải lấy vợ lân thứ 2. Nhưng vì trụ nàm của vợ chồng thiên địa tương sinh tương hợp nên vợ chồng vẫn ối ân đằm thắm.

Ví du 3. Càn tạo

Khôn tạo: ất dậu Tháng 10 năm 1991 khi tôi ở Chu Hải – Quảng Đông có ông Lý là cán bộ nghiên cứu khoa học kỹ thuật đã có những công trình đáng kể đến nhờ tôi đoán. Tôi thấy trong Tứ trụ thương ‘quan nhiều, nhật nguyên là giáp tuất khắc vợ rất nặng, đó là dấu hiệu của người khắc vợ, lấy vợ lần thứ hai. Năm ông 40 tuổi gặp đại vận là thin, năm 1988 lưu niên cũng là thin cùng với các thin trong Tứ trụ tạo thành 3 thin xung 1 tuất, xung đúng vào ngôi vợ. Do đó năm 1988 sẽ có tai họa nếu không ly hôn thì chết. Nhưng vì vợ sinh năm ất dậu, trụ năm của hai người là thiên can hợp nhau, địa chi cũng hợp nhau, gốc rễ bền vững không thể phá nổi, cho nên hai V) Ợ chồng qua những biến động của xã hội vẫn ý đầu tâm hợp, cuộc sống mỹ mãn.

Trên kia đã nói đến trụ năm cửa năm sinh hai vợ chồng phạm thiên khắc địa xung tức là gốc bị thương tổn thì cho dù mệnh nàm của vợ chồng tương sinh, nếu trong Tứ trụ không có cát tinh cứu trợ, cũng không tìm được cách hóa giải thì khi mệnh nam qua tuổi 54, người nhẹ thì ly hôn hoặc vì bị bệnh mà tàn phế, người nặng thì sẽ chết.

Khi mệnh nam nữ ở tuổi chẵn 54 đều là cửa ải của sự sinh tử. Điều đó chủ yếu là trụ năm của năm sinh ở thời điểm 54 tuổi cùng với lưu niên phạm thiên khắc địa xung, làm hại thái tuế của năm đó. Đặc biệt là mệnh nam nếu trụ năm phạm thiên khắc địa xung với vợ thì năm 54 tuổi rất khó vượt qua. Năm 54 tuổi lại cũng đúng là năm bản mệnh của vợ cho nên về phía nữ phần nhiều là năm dễ bị chồng chết.

Có những cặp vợ chồng trụ năm phạm thiên khắc địa xung, chồng lúc 54 tuổi tuy không chết nhưng vì bệnh tật hoặc tai nạn mà tàn phế, nhưng đến năm 60 tuổi gặp năm bản mệnh của mình còn vợ lúc đó 54 tuổi vừa đúng phạm thiên khắc địa xung với lưu niên khắc hại thái tuế. Do đó chồng mất.

Dưới đây đơn cử mấy ví dụ để chứng minh.

Ví dụ 1: Càn tạo: sinh năm Canh ngọ, 54 tuổi gặp năm Giáp tí bị bệnh.

Khôn tạo: sinh năm bính tý 54 tuổi là năm mệnh, mất chồng.

Ví dụ 2: Càn tạo: sinh năm tân mùi, 54 tuổi gặp năm ất sửu bị bệnh.

Khôn tạo: sinh năm Đinh sửu, năm 48 tuổi, gặp năm mệnh, mất chồng.

Ví dụ 3: Càn tạo: sinh năm Mậu dần, năm 54 tuổi gặp năm nhâm thân, bị bệnh.

Khôn tạo: sinh năm giáp thân, năm 48 tuổi gặp năm mệnh mất chồng.

Ví dụ 4: Càn tạo: sinh năm Mâu dần, năm 54 tuổi gặp năm nhâm thân bị bệnh tàn phế.

Khôn tạo: sinh năm giáp thân, năm 48 tuổi gặp năm mệnh chồng tàn phế.

Ví dụ 5: Càn tạo: sinh năm Đinh sửu, năm 54 tuổi gặp năm tân mùi, bị bệnh tàn phế.

Khôn tạo: sinh năm quý mùi, năm 48 tuổi gặp năm mệnh chồng tàn phế.

Ví dụ 6: Càn tạo: sinh ‘năm Bính tý, năm 54 tuổi gặp năm canh ngọ, đầu năm ly hôn.

Khôn tạo: sinh năm Nhâm ngọ, năm 48 tuổi gặp năm mệnh, ly hôn.

Ví dụ cuối cùng này vì năm 1987 đã dự đoán mệnh nam năm Canh ngọ 1990 nếu không ly hôn thì sẽ chết, không chết thì vì bị bệnh mà tàn phế. Do đoán trước nên đã tìm cách hóa giải nên cả hai vợ chồng đều bình yên, vượt qua năm canh ngọ, từ hung trở thành cát, về sau danh lợi đều đạt được cho đến nay vẫn mạnh khoẻ. Ví dụ này chứng tỏ một khi đã đoán được tai hoạ nếu tìm cách hóa giải có thể vượt qua.

Đối với những cặp vợ chồng trụ năm không phạm thiên khắc địa xung thì khi nam nữ đến tuổi 54, nếu Tứ trụ của mình tổ hợp tốt bản thân mình không bị bệnh hoặc không bị tai hoạ thì người thân trong nhà tất nhiên sẽ gặp trắc trở khó khăn hoặc gặp những việc không thuận. Nếu tổ hợp Tứ trụ của mình không tốt thì nhất định mình sẽ bị bệnh hoặc gặp trắc trở nào đó.

Ví dụ: Một ông họ Tôn người ở Nam Kinh, năm quý hợi 1983 đúng năm 54 tuổi vì bệnh phải trải qua đại phẫu thuật, về sau mất năm kỷ tị.

BẢNG NĂM HÔN PHỐI CỦA NAM NỮ

Giải thích: Bảng này lấy lớn phôi nhỏ tức mệnh nam nên phối với mệnh nữ.

Ví dụ: Mệnh nam sinh năm Quý sửu nên phôi với mệnh nữ sinh năm Canh thân, Tân dậu, Giáp tí. Nếu mệnh nữ sinh năm Quý sửu thì phải tìm năm sinh trong cột mệnh nữ để tra ra mệnh nam nên phối trong cột mệnh nam. Ví dụ: mệnh nữ Quý sửu thì nên phối hôn với mệnh nam sinh năm Ất tị hoặc Mậu thân. Đặc điểm chủ yếu của bảng này là lấy trụ năm của nam nữ tương sinh tương hợp làm chính chứ không đòi hỏi mệnh của nam nữ tương sinh. Nếu trụ năm của hai bên tương sinh tương hợp, mệnh năm lại tương sinh thì tất nhiên càng tốt.

Ví dụ: nam Giáp tuất phối với nữ Kỷ mão là trụ năm thiên địa tương hợp lại còn thêm 1 người mệnh hỏa, 1 người mệnh thổ tức mệnh năm tương sinh cho nhau.

Bảng năm phôi hôn của nam nữ đồng thời bảo đảm trụ năm tương sinh tương hợp còn cố gắng tránh điều kiêng kỵ của 12 cầm tinh tương hại lẫn nhau và chi năm tương hình lẫn nhau. Có những trường hợp tuy chỉ năm tương hình lẫn nhau như thin dậu thuộc về tương hình nhưng với hai người mà nói là trong hợp có sinh nên lấy hợp làm chính.

Trong bảng này tuổi của nam nữ cách nhau ít nhất là 1 tuổi, cách nhau xa nhất là 15 tuổi, đặc biệt là nam sinh năm hợi chỉ có tương sinh tương hợp với nữ Tứ trụ năm nhỏ hơn 15 tuổi. Gặp trường hợp như thế nếu không tìm được vẫn có thể làm theo cách cổ xưa là mệnh năm nam nữ tương sinh để phối hôn.

Bảng năm phối hôn nam nữ là năm sinh phôi hôn nam nữ tốt nhất, lý tưởng nhất, là lấy theo đề phòng khắc chồng khắc vợ làm mục tiêu chính. Bên cạnh đó những phương pháp phối hôn theo cách cổ đại vẫn có thể dùng được. Nói như thế nghĩa là chọn cách phối hôn theo bảng này cũng được hoặc theo cách cổ cũng được, bạn có thể tùy ý chọn.

Bảng này là lấy 60 năm làm 1 vòng để phối hôn. Khi sử dụng có thể tra bảng nạp âm 60 hoa giáp ở tiết 1 chương 5 sách này. Để tiện cho độc giả ở đây chỉ trích can chi từ năm 1941 đến năm 2000. Thời gian ngoài khoảng đó bạn đọc có thể tra cứu để suy ra.

V. DỰ ĐOÁN PHƯƠNG PHỐI HÔN

Gia đình là tế bào của xã hội. Vấn đề phối hôn của nam nữ không những là điều kiện quan trọng để cấu tạo thành gia đình mà còn là nguồn gốc để xã hội dựa vào đó tồn tại và phát triển. Cho nên trong “Quái tự” có câu: “Có tròi đất sau đó mới có vạn vật có vạn vật sau đó mới có nam nữ, có nam nữ sau đó mới có vợ chồng, có vợ chồng, sau đó mới có cha con, có cha con sau đó mới có vua tôi, có vua tôi sau đó mới có thiên hạ, có thiên hạ sau đó mới có lễ nghĩa, v.v..”. Con người là cái quý nhất trong thế gian, con người là chủ thể của xã hội, mà người lại là sản vật của “sự phôi nam nữ”. Cho nên vấn đề hôn nhân nam nữ không những là việc lớn trong đời sống cá nhân, mà còn là việc lớn mang tính chất xã hội. xử lý được tốt, đối với cá nhân, đối với gia đình, đôì với xã hội, đôì với sự giáo dục con cái đều có lợi. Ngược lại thì gia đình và cá nhân sẽ mang lấy những rủi ro, bất hạnh, đặc biệt là sự thương tổn tâm linh của con cái, không có gì có thể bù đắp được; đồng thời cũng đưa lại cho xã hội rất nhiều phiền phức. Do đó vấn đề hôn nhân cũng là một trong những đề tài quan trọng của nghiên cứu xã hội học.

Từ trong Chu dịch có thể thấy tổ tiên ta từ rất sớm đã nghiên cứu và coi trọng vấn đề hôn nhân. Có rất nhiều quẻ đã bàn về hôn nhân, nếu nam nữ hôn phối hợp cách thì trưởng nam phối trưởng nữ, trung nam phối trung nữ, thiếu nam phốỉ với thiếu nữ. “Hai khí cảm ứng phải tương đương” mới tốt. Tức là nói, cuộc hôn nhân mỹ mãn tốt đẹp phải là hai khí âm dương cùng kết hợp mới có thể bách niên giai lão. Như quả “hàm” là nam nữ chính phối.

Quẻ “Cấu” của “Chu dịch” có “vật dụng thủ nữ”, quẻ “Tiểu súc” có “phu thê phản mục” là vì lão nam phối với trưởng nữ, vừa không chính phối lại vừa hai khí âm dương tương khắc nhau. Cho nên phát sinh “phu thê phản mục”.

Trên đây là từ sự tương hợp của hai khí âm dương để bàn về hôn nhân. Hôn nhân là vấn đề phức tạp, trong đó có cả yếu tố tâm lý – xã hội, V.V.. Trong “Chu dịch nói một cách giản dị theo sự tương sinh tương khắc của vận năm, theo thuộc tướng, theo tổ hợp Tứ trụ. Tôi trong nghiên cứu phát hiện thấy, trong kết hôn nam nữ còn có vấn đề phương hướng. Tức là trong hôn nhân, nam nữ mỗi người đều có một phương hướng cố định. Nếu phương hướng kết hôn của hai bên thông nhất với nhau thì đó là một trong những nguyên nhân quan trọng để bảo đảm chung sống đến đầu bạc răng long. Nếu phương hướng không đúng thì thứ nhất, khi nói đến yêu đương khó chấp nhận nhau, thứ hai nếu có kết hôn đi nữa cũng không có lợi. Hậu quả là, nếu nhẹ thì bất hòa, nặng ra không ly hôn thì thiệt hại khôn lường, rất khó lâu dài. Năm 1984 tôi CÓ làm thống kê, trong 100 người, 94 người phương phối hôn đúng, 6 người không đúng. Trong số’ phôi hôn sai phương hướng có 4 người chết, 2 người ly hôn.

Tháng 12 năm 1987, trong cuộc Hội thảo học thuật “Chu dịch” quốc tế, có tám vị chuyên gia nhờ tôi làm cuộc thử nghiêm ngay tại trận về việc đoán phương kết hôn, trong đó có bảy người phương hướng đúng, chỉ có một người phương hướng kết hôn sai. Vị chuyên gia phương hướng kết hôn sai hỏi tôi: “Ngài dùng phương pháp gì để chứng minh là phương hướng kết hôn của tôi sai, hay ngài đoán sai”. Tôi nói: “Nếu hai vợ chồng ngài rất hòa thuận thì tôi đoán sai, ngược lại là tôi đoán đúng, còn phương hướng kết hôn của ngài sai”. Ngay tại đó ông ta nói: “Đúng, chúng tôi từ kết hôn đến nay luôn bất hòa, hầu như ba ngày thì có đến hai lần cãi nhau. Ngài đoán rất đúng, phương pháp này đáng được nghiên cứu, mỏ rộng”.

Dự đoán phương hướng kết hôn là lấy nguyên quán của mình làm tâm, đối phương cũng lấy nguyên quán của họ làm tâm. Sau đó căn cứ ngày, tháng sinh theo âm lịch của mình, rồi theo hình bát quái, lấy tháng sinh làm ngày mồng một, đếm thuận theo sô’ cho đến ngày sinh.

Nếu dừng lại ở mão thì phương kết hôn nằm trên trục đông- tây, dừng ở thân thì phương kết hôn nằm trên trục đông bắc – tây nam… Cho nên khi tìm đối tượng yêu thì tìm người theo trục đó, nếu sai hướng thì không tìm hiểu, nếu tìm hiểu được kết quả cũng không tốt?

Dưới đây cử hai ví dụ.

1. Người sinh ngày 23 tháng 11 năm 1936, kết hôn theo phương nào?

Tháng 11 là tháng tí, ở phương bắc, từ tí đếm là ngày 1, sửu 2, dần 3, mão 4… đến ngày 23 là tuất. Tuất thuộc phương tây bắc, đôì lại với nó là phương đông nam. Cho nên phương hướng kết hôn của người đó nằm trên trục Tây bắc – Đông nam.

2. Người sinh ngày 6 tháng 6 năm 1920, kết hôn theo phương nào?

Tháng 6 là tháng mùi, ở phương tây nam. Bắt đầu từ mùi đếm mồng một, thân 2, dậu 3, tuất 4, hợi 5, tí 6. Tí thuộc phương bắc, đối lại bắc là nam. Vậy người đó kết hôn theo hướng bắc – nam. Khi dự đoán, nếu không có hình Bát quái, có thể dựa vào bàn tay để tính

Về hôn nhân có tính phương hướng và cách dự đoán nó, tôi đã tra cứu rất nhiều sách có liên quan với bát quái và những sách về “Mệnh học” nhưng chưa tìm thấy sách nào bàn đến. Phương pháp này là do tôi nghiên cứu thực tế tìm ra và đã giúp cho rất nhiều thanh niên cũng như những “gia đình khó khăn” xây dựng được gia đình hạnh phúc và phần nhiều sinh được con tốt. Với phương pháp này, chỉ cán biết thời gian sinh chuẩn là đoán được. Nhưng có một vấn đề còn đang nghiên cứụ là trên trục đó nhưng ở hướng nào (hay phía nào) thì chưa khẳng định được, Hoặc cự ly chỗ ở xa bao nhiêu cũng chưa được giải quyết. Hai vấn đế này còn chờ thực tiễn nghiên cứu trả lời.

Để dễ tra cứu, tôi đã lập thành bảng ngày, tháng, căn cứ ngày tháng sinh của bản thân để tra bảng thì sẽ tìm ra phương kết hôn trên trục nào. Bàn về tình yêu, tuy phương hướng đúng, nhưng không phải chỉ cần thế là đủ mà còn các yếu tơ khác nữa. Song nếu kết hôn thì nên đúng phương hướng. Bảng này không những đã đưa ra con đường ngắn, hiệu quả cho nhiều nam nữ thanh niên mà cũng giúp các gia đình tránh được những phiền phức về sau.

BẢNG PHƯƠNG HƯỚNG NGÀY VÀ THÁNG SINH.

1. Phương Đông bắc – Tây nam

2. Phương Đông – Tây

3. Phương Bắc – Nam

4. Phương Tây bắc – Đông nam

CÙNG CHUYÊN MỤC

Đi tìm đức Phật

Từ một câu chuyện có thật Kinh Hiền Ngu ghi chép lại rằng, ở thủ đô Vaisali của đất nước Licchavi có 500 người mù

Scroll to Top