Âm dương ngũ hành trong cơ thể người là một loại vật chất rất tinh vi, không những ngày xưa mà ngay cả khoa học hiện đại ngày nay cũng chưa có máy móc nào có thể đo được. Do đó, người xưa để nắm vững quy luật sinh khắc biến hóa của âm dương ngũ hành trong tự nhiên và cơ thể con người, đã phát minh ra mười thiên can và mười hai địa chi để biểu thị bốn phương tám hướng trong trái đất, để định phương hướng; định ra các tiết lệnh để biểu thị bốn mùa xuân hạ thu đông của một năm; biểu thị lục phủ ngũ tạng trong cơ thể để biết thịnh suy.
Thiên can địa chi đã chia ra âm dương ngũ hành không những có khí mà còn có sắc, có ánh sáng và có điện, Như khí mộc thuộc màu xanh, sinh gió; khí hỏa thuộc màu đỏ, sinh nhiệt; khí thổ thuộc vàng, sinh táo; khí kim thuộc trắng, sinh hàn; khí thủy thuộc đen, sinh tháp. Nên người ta có sự thay đổi về phong nhiệt táo hàn thấp. Khi âm dương ngũ hành của cơ thể không điều hòa thì lục phủ ngũ tạng mất sự thống nhất.
Ngũ hành thông với năm tạng, lục phủ thông với chín khiếu. Mười can bị khắc thuộc lục phủ, mười hai chi bị khắc thuộc ngũ tạng. Do đó, căn cứ theo sự biến hóa thịnh suy của âm dương ngũ hành mười can, mười hai chi mà biết được sự thịnh suy của tạng phủ. Cho nên có thể đạt được mục đích phòng bệnh, trị bệnh. Các mục bệnh tật, thương tật, tử vong, tai hoạ, tù ngục của chương này đáng lẽ chia thành từng chương riêng, nhưng vì ví dụ rất nhiều, đang quá trình chỉnh lý nên thương tật, tử vong, tai hoạ, tù ngục tạm thời đặt thành các tiết, thảo luận chung, mong độc giả thông cảm.
I. BỆNH TẬT
- Ngang vai trong Tứ trụ nhiều là người ít bệnh.
- Trụ ngày cao cường thì cuộc đời ít bệnh.
- An thụ nhiều sinh thân (mình) là người khỏe.
- Thân mạnh, ấn lại vượng là ít bệnh.
- Trụ ngày trường sinh là người khoẻ, bệnh ít.
- Tứ trụ có thiên, nguyệt đức là suốt đời ít bệnh.
- Kình dương kiếp tài là bệnh tật giày vò.
- Kim yếu gặp hỏa vượng là có bệnh về máu.
- Kim chủ về phô’i. Nếu bị hoả xung khắc là bị bệnh về tửu sắc.
- Thô’ hư gặp mộc vượng là tỳ vị bị tổn thương.
- Người có bệnh đau gân cất là vì mộc kim làm thương tổn.
- Mắt mờ là hoả bị thuỷ khắc.
- Chi dưới hàn lạnh là sinh vào mùa đông mà không gặp hoả.
- Thương quan gặp thương vận là bệnh tật liên miên.
- Mệnh phạm hình xung lẫn hợp thì phần nhiều do tửu sắc hay tang gia mà thành bệnh.
- Vận gặp tỉ kiếp thì vì bệnh tật mà hết của.
- Tứ trụ kiêu thần nhiều, thân lại nhược thì bị bệnh lao.
- Mộc bị kim khắc thì vùng thắt lưng bị bệnh.
- Hỏa bị thuỷ khắc thì bị bệnh về mắt.
- Tam hợp hỏa cục thịnh vượng thì bị bệnh về máu.
- Thổ khắc thuỷ thì các tạng vùng bụng bị bệnh.
- Hoả khắc kim thì phổi bị bệnh.
- Trụ ngày vượng, tài quan thịnh là chân tay bị gãy hay bị thương.
- Kình dương gặp ấn thụ thì cuối đời bị bệnh.
- Hai mắt không có đồng tử là vì hoả thổ đất khô quý thuỷ.
- Bính đinh khắc hại canh kim là đại tràng có bệnh.
- Kim thủy thương quan hàn thì ho vì lạnh, nhiệt thì bị đờm vì hoả.
- Hoả thổ ấn thụ, nhiệt thì phong đờm, táo thì người ngứa.
- Kim thuỷ làm cho khô là bệnh thận hư.
- Thủy mộc tương sinh là tì vị bị tổn thương.
- Kình dương ở bại địa là bệnh tràng nhạc.
- Tài nhiều thân nhược lại hành vận tài thì nhiều bệnh tật.
- Thổ vượng gặp hoả là bệnh đau mắt vì nhiệt.
- Trong Tứ trụ thương sát nhiều, không có quan tinh, khi vận nhập vào quan địa lại gặp tuế quân, nếu không bị bệnh về mắt thì sẽ gặp điều rủi ro khác.
- Ngày, giò có cả sát, quan hỗn tạp thì bệnh xen nhau phức tạp.
- Kiêu đoạt thực thần là có tật.
- Kim thần gặp thuỷ là người vừa nghèo đói vừa bệnh tật.
- Kiêu thần đóng ở trụ ngày hoặc Tứ trụ nhiều kiêu thuần là vì ăn mà bị bệnh.
- Trụ tháng có sát hoặc thương quan, hành đến vận thương quan thì phải đề phòng bệnh mắt.
- Bính đinh hỏa vượng là khó tránh khỏi bệnh hoặc cấm khẩu do trúng phong.
- Trụ ngày, trụ giờ ở suy địa là bệnh khó khỏi.
- Nhâm quý thêm thổ vượng là chi dưới bị thương tổn.
- Thân nhược gặp sát mạnh hoặc gặp sát địa nếu không chết cũng tai hoạ nặng.
- Kim gặp vượng thuỷ là bệnh gân cốt bị thương.
- Hợi tý còn gặp thân tị, ngọ là bệnh về mắt.
- Trong Tứ trụ, trụ ngày nhược, thực thương nhiều là bệnh choáng đầu.
- Giáp mộc gặp hoả nhiều là bệnh về thần kinh.
- Trong trụ hợi, tý nhiều là bệnh thủng ruột non, nhất là sinh vào giờ bính tí, nhâm tý dễ ứng nghiệm.
- Tứ trụ hỏa nhiều thì tuổi trẻ hay bị viêm mủ.
- Tứ trụ đinh ngọ nhiều cồn CÓ mùi là đầu có sẹo hoặc sẹo làm hói một khoảng đầu.
- Kiêu gặp vượng, nếu không bị ốm cũng gặp tai hoạ.
- Nữ trụ năm gặp thương quan thì đẻ khó.
- Nữ gặp thiên đức, nguyệt đức thì dễ sinh.
- Thất sát hoặc kiêu thần đóng ở trụ ngày là vợ nhiều mà đẻ ít khí huyết không điều hòa.
- Nữ gặp kiêu thần không tốt, rất khó đẻ, gặp bệnh cũng hay nguy.
- Thực thần gặp kiêu thần nhiều là đẻ khó.
- Can năm có thương quan, trụ giờ gặp kình dương hình phạt, tức vận hợp với kiêu thần, kình dương đều là tượng đẻ khó.
- Ngày giờ phạm câu giảo là đẻ khó.
- Kình dương nhiều là đẻ khó, bệnh kinh nguyệt nhiều, đến lúc đứng tuổi thì mắc bệnh hàn lạnh.
- Nữ phạm mão dậu, phần nhiều sẩy thai khắc con, đau nhức liên sườn.
- Bệnh vì mộc hoả thường là bệnh đờm do hoả.
- Bệnh vì kim thuỷ thường là bệnh bị độc.
- Bệnh vì kim thuỷ thường là bệnh ở kinh thận.
- Bệnh vì thuỷ mộc thường là bệnh tì vị.
- Thiên quan chế phúc thái quá phải đề phòng đau hỏng mắt hoặc bệnh ở mắt cá chân.
- Thổ hư thuỷ thìn h phải đề phòng bị thương thành tật.
- Trong trụ gặp đến ba bốn lần kình dương thì phải đề phòng bị bệnh mù hoặc điếc.
- Người phạm kình dương sát thì để phòng mù mắt.
- Trong trụ có kiếp tài, kình dương mà không có tài thì người không nghèo cũng tàn tật.
- Thân nhược lại gặp sát vượng, không chết cũng bị thương thành tật.
- Thân suy, quan vượng là chân tay bị thương thành tật.
- Trụ gặp thương quan nhiều là lưng, chân, gân cốt bị thương.
- Tam hình làm tan hợp là coi chừng dễ bị thương.
- Gặp hình phạt nhiều thì khó tránh khỏi bị thương.
- Năm tháng dần thân tương xung phải coi chừng bị câm điếc.
- Thìn tuất sửu mùi tương hình cũng đề phòng câm điếc.
- Mão dậu xung phá phải đề phòng bại chân.
- Trụ gặp một sát, ba tài, hai hoả phải đề phòng mù mắt.
- Trụ ngày phạm thương quan phải để phòng tàn tật.
- Trong trụ có bệnh thì cuối đời vẫn khó khỏi, bệnh ở trong vận, quá vận thì khỏi.
II. VÍ DỤ ĐOÁN BỆNH TẬT
Ví dụ 1. Càn tạo
Sát – Tài – Nhật nguyên – Kiêu – Nhâm dần – Canh tuất – Bính tý – Giáp ngọ
Năm 1985, có một sĩ quan nhờ tôi đoán vận. Xem trong Tứ trụ tôi thấy đại vận hai tuổi năm tân hợi gặp lưu niên nhâm tý, nên nói: “Năm 1972 có bệnh đau mắt, năm đó còn bị bệnh khác”. “Đúng! Năm 1972 mắt tôi suýt bị mù. Ngoài ra còn bị bệnh nằm viện”.
Năm 1972 bị bệnh mắt và còn bị bệnh khác, vì trong trụ có nhâm thuỷ khắc can ngày, cho nên khi gặp vận kim thuỷ và năm nhâm thuỷ thì can ngày là bính bị khắc, do đó bị bệnh. Bị bệnh mắt là ứng với câu “Nhâm thuỷ khắc bính hỏa”.
Ví dụ 2. Càn tạo
Sát – Tài – Nhật nguyên – Kiêu – Bính ngọ – Ất mùi – Canh thìn – Mậu dần
Tháng giêng năm 1986, có một người bạn nhờ tôi đoán vận cho con. Tôi thấy trong tất sát kiêu tương sinh, nên đầu tiên nói: “Con anh năm 1978 không bị bệnh mật thì bị bệnh gan”. “Đúng! BỊ viêm gan, nằm viện”. Người bệnh gan, mộc tử ở ngọ. Năm 1978 là mậu ngọ, ứng với câu “Kiêu gặp kiêu vượng, không bệnh thì tai họa”.
Ví dụ 3. Càn tạo
Tài – Tài – Nhật nguyên – Tài – Nhâm tý – Quý sửu – Kỷ dậu – Quý dậu
Tháng 7 năm 1987, khi tôi về Hồ Bắc thăm quê, một người bạn cũ nhờ tôi đoán vận cho con trai. Tôi nói: con anh năm 1990 vừa bị bệnh vừa bị thương, về bệnh chắc là bệnh gan. Tháng giêng năm 1991, khi tôi lại về quê thì vợ chồng bạn tôi báo cho biết: “Năm 1987 ông đoán con tôi năm 1990 bị bệnh gan và bị thương đều ứng nghiệm cả. Đầu tiên là bệnh gan nằm viện, sau đó đi xe máy lại bị thương”.
Năm 1990 vừa bệnh gan, vừa bị thương, vì: trong trụ dậu hợp kim cục khắc mộc. Năm canh ngọ 1990 là lúc kim vượng mộc chết, nên bị bệnh gan. Năm canh ngọ 1990, canh là thương quan lại gặp vượng địa nên có tai nạn bị thương.
Ví dụ 4. Khôn tạo
Thực – Tài – Nhật nguyên – Tỷ – Ất mùi – Đinh hợi – Quý dậu – Quý hợi
Tháng 7 năm 1987 có người bạn thân nhờ tôi đoán vận cho vợ. Tôi xem qua Tứ trụ nói: năm 1987 vợ anh bị bệnh nặng. Bạn tôi nói luôn: đúng thế! Vợ tôi ốm hơn nửa năm nay, giờ vẫn chưa khỏi.
Năm 1987 bị bệnh vì trong Tứ trụ đều gặp kiêu thần, thực thần; đại vận lại gặp kiêu thần. Trụ ngày quý dậu xung khắc trực diện với lưu niên thái tuế đinh mão. Điều đó ứng vối câu: “Kiêu, thực đóng ở trụ ngày, can chi lại gặp kiêu nữa, kiêu đoạt thực tất bị bệnh”.
Ví dụ 5. Càn tạo
Tài – Sát – Nhật nguyên – Sát – Mậu ngọ – Tân dậu – Ất dậu – Tân tỵ
Tháng 3 năm 1989, có một học viên ở Quảng Châu con ốm luôn, không biết nguyên nhân gì nên nhờ tôi xem giúp. Sau khi xem Tứ trụ tôi nói: con chị năm 1980, 1981 ốm nặng, có thể nói thoát chết. Chị ta liền nói: Đúng! Suýt nữa thì chết.
Năm 1980, 1981 ốm nặng vì trong trụ thất sát nhiều lại gặp tài sinh.
Năm 80, 81 là canh thân, tân dậu, là sát vượng gặp đất sát nên ốm nặng. Điều đó ứng với câu: “Thân nhược, sát vượng và nhiều lại gặp sát địa thì nhất định ôm”.
Ví dụ 6. Càn tạo
Sát – Quan – Nhật nguyên – Thương – Nhâm ngọ – Quý mão – Bính tuất – Kỉ hợi
Ông Vương bị bệnh cao huyết áp lâu ngày không thể đi làm. Khi ở nhà thì huyết áp bình thường, vợ nghi ông ta giả vờ ốm, dục ông đi làm. Nhưng cứ hễ đến nhà máy là huyết áp lập tức lên quá 200, nhà máy lại đành cử người đưa ông về.
Tháng 3 năm 1985, ông Vương tìm đến tôi nói: “ở nhà máy nhất định có ma tà quấn lấy tôi. Tôi ở nhà huyết áp bình thường, ăn được ngủ được, thế mà cứ hễ đến nhà máy là huyết áp lại lên vùn vụt còn nhạy hơn cả uống thuốc, thật muốn chết quách cho xong… “Tôi bảo ông cho tôi biết ngày sinh tháng đẻ. Xem qua Tứ trụ thấy rất rõ nguyên nhân. “Ông làm việc ở phương bắc của nhà ở là không lợi cho sức khỏe (vì trong Tứ trụ thuỷ nhiều, nhà máy lại ở phía bắc nhà ở, do đó thuỷ vượng khắc hoả nên huyết áp cao). Nếu ông được chuyển công tác về phía nam chỗ ở, hoặc nghỉ ở nhà thì bình yên vô sự. Vấn đề là thế chứ không có ma tà nào cả”. Ông Vương về nhà nói lại với vợ, nghỉ ngơi ở nhà và không xảy ra điều gì cả.
Ví dụ 7. Càn tạo
Quan – Quan – Quý tỵ – Quý hợi – Nhật nguyên – Kiếp – Bính tý – Đinh dậu
Tháng 7 năm 1990, có một thương nhân Hoa kiều đến Tây An nhờ tôi đoán vận cho anh trai của ông. Tôi xem qua Tứ trụ, lưu niên và đại vận rồi nói với ông ta: “Anh của ông tháng 10 năm 1989 bị nạn may mắn mà thoát chết”. Ông Hoàng kinh ngạc thừa nhận: đúng, năm ngoái vì bệnh tim bột phát, tý nữa thì chết, may mà cứu được”.
Năm 1989 là năm kỷ tị, trong trụ quan tinh vượng và trùng lặp, đại vận lưu niên lại gặp thương quan. Tháng 10 là quý hợi, chính xung với thái tuế kỉ tị, do đó mà ốm. Điều đó đúng vói câu: “Quan gặp thượng quan, không bệnh cũng tai họa”.
Ví dụ 8. Càn tạo
Thực – Thương – Nhật nguyên – Thương – Quý mùi – Nhâm tuất – Tân hợi – Nhâm thìn
Tháng 4 năm 1991, khi tôi đang giảng bài ở Singapo có đoán vận cho ông Cao. Tôi nói: “Ông thường mắc bệnh váng đầu”. “Đúng. Mỗi lần bệnh lên là rất lâu”. Như thế là vì: “Trong trụ thương thực nhiều, tất có bệnh đau đầu”.
Ví dụ 9. Khôn tạo
Quan – Kiêu – Nhật nguyên – Ấn – Kỉ mão – Canh ngọ – Nhâm dần – Tân sửu
Tháng 5 năm 1991, khi tôi ở Thái Lan có đoán vận cho cô Trương. Xem qua Tứ trụ và tuế vận tôi nói: “Năm 1950 cô mắc bệnh gan”. “Đúng đấy!”
Sở dĩ như thế là vì,’trong Tứ trụ dần là gan, nhâm sinh vào tháng 5 là tử địa, đại vận nhâm thân chính là thân kim xung khắc dần mộc thái tuế.
III. THƯƠNG TẬT, TÀN PHẾ
Ví dụ 1. Khôn tạo
Kiếp – Tài – Nhật nguyên – Tỷ – Tân sửu – Giáp ngọ – Canh ngọ – Canh thìn
Tháng 4 năm 1986, tôi gặp cô gái bại liệt cả hai chân nên chủ ý ghi lại Tứ trụ này. Năm quý mão 1963 vì bị sốt cao mà cô ta bị bại liệt hai chân.
Nguyên nhân dẫn đến tàn phế là vì: trong trụ, thổ sửu thìn tàng thương, năm 63 là thái tuế quí mão, tiểu vận gặp quí mùi, quí thuỷ thương quan gặp đất trường sinh đế vượng tức là gặp suy lại bị vượng khắc. Đúng với câu: “Thương quan nhiều thì chân tay, gân cốt bị thương hoặc tàn phế”.
Ví dụ 2. Khôn tạo
Kiếp – Quan – Nhật nguyên – Quan – Kỉ dậu – Ất hợi – Mậu tuất – Kỉ mão
Tháng 8 năm 1990, một vị lãnh đạo nhỏ tôi đoán vận cho con gái. Căn cứ vào Tứ trụ tôi đoán năm 1971 cô ta bị tàn phế. Quả đúng như thế. Đó là vì năm 1971 “Thương quan gặp quan thì tật bệnh, tàn phế”.
Ví dụ 3. Càn tạo
Kiếp – Sát – Nhật nguyên – Thương – Đinh tỵ – Nhâm tý – Bính ngọ – Kỉ hợi
Tứ trụ này trong chương Quan vận đã có đưa ra. Khi đó tôi còn đoán thêm: “Người này nhất định mù một mắt”. Đúng thế. Đó là vì “Hỏa gặp thuỷ khắc thì mắt mờ”.
Ví dụ 4. Càn tạo Kiêu Giáp thân
Kiếp – Đinh sửu – Nhật nguyên – Bính tuất – Sát – Nhâm thìn
Tháng 9 năm 1986, một công an nhờ tôi đoán vận cho em. Tôi xem Tứ trụ tính ra vận của anh ta và nói: “Khi cậu ấy 6 tuổi, tức là năm 1950, đầu bị thương nặng”. Cả hai anh em đều kinh ngạc nói: “Đúng quá!
Năm 1950 bô’ tôi trèo cây chặt cành, em chơi ở dưới, rìu rơi từ trên cao xuống đúng vào đầu em tôi, chém thành một nhát, may mà không chết”. Trong trụ, sát kiêu tương sinh cho nhau tất có tai họa bị thương. Giáp mộc là đầu, năm 1950 là năm canh dần, chính là trụ năm giáp thân xung khắc với thái tuế canh dần, canh kim khắc giáp mộc, nên năm 1990 đầu bị thương. Đúng với câu: “Giáp mộc bị khắc thì trên đầu bị thương”.
Ví dụ 5. Càn tạo
Quan – Thương – Nhật nguyên – Tỷ – Canh tuất – Bính tuất – Ất dậu – Ất tỵ
Tháng 9 năm 1986, có một người bán thịt vì cãi cọ mà đánh nhau, dùng’ dao chém bị thương cánh tay một em thiếu niên. Bô’ mẹ em bé rất đau khổ, không ít người cũng đồng tình với em bé. Tôi thấy tình cảnh như thế thì nghĩ: “Em bé này nhất định giờ sinh tháng đẻ có tiêu chí bị thương, • năm nay vừa đến đúng thời gian đó, cho nên bị nạn này. ít người tin điều đó nên bảo bà mẹ nói ra ngày sinh tháng đẻ xem sao.
Sau khi xếp xong Tữ trụ, quả nhiên trong trụ bính là thương quan, trên trụ quan lại có quan tinh, năm 1986 lại vừa đúng năm bính dần thương quan. Cho nên “Thương gặp thương lại gặp vượng địa, tất sẽ có cái khổ vì bị thương”. Đúng với câu: “Thương quan gặp quan, là tai họa bất ngờ”.
Ví dụ 6. Khôn tạo
Thương – Mậu tý – Tí – Đinh tỵ – Nhật nguyên – Sát – Đinh tỵ – Quý mão
Tháng 2 năm 1987, người phụ nữ này nhờ tôi đoán vận. Căn cứ các tiêu chí trong Tứ trụ, tồi-nói: “Năm 1983 này nếu không ốm nặng thì cũng gặp tai nạn”. “Đúng! Nàm 1983 tôi sụt hầm, tý nữa mất mạng”.
Trong trụ kiêu thương đều gặp. Năm 1983 là năm quý hợi, đúng là năm kiêu vượng, đúng với câu: “Kiêu gặp kiêu vượng, không ôm thì cũng bị thương”.
Ví dụ 7. Khôn tạo
Quan – Kiếp – Kỉ hợi – Quý dậu – Nhật nguyên – Nhâm tý – Thực – Giáp thìn
Tháng 4 năm 1991, khi tôi ở Xingapo, bà Dương nhờ đoán vận. Tôi xem xong Tứ trụ nói: “Năm 1990 đầu bà bị thương nặng”. Bà ta thừa nhận “Đúng thế! Năm 1990 tôi bị xe đâm, đầu bị thương”.
Trong trụ giáp mộc là đầu, nám 1990 là năm canh ngọ, canh kim khắc giáp mộc, nên đầu bị thương. Sự việc xẩy ra năm 1990 vì trụ ngày nhâm- tý kình dương, xung tuế quân ngọ hỏa, ứng với câu: “Kình dương xung khắc tuế quân, là tai nạn rất nặng”.
Ví dụ 8. Càn tạo
Tỷ – Mậu tý – Kiêu – Bính thìn – Nhật nguyên – Mâu dần – Kiêu – Bính thìn
Tháng 3 năm 1992, khi tôi ở Thâm Quyến viết sách này, một người bạn dẫn cấp dưới của mình đến gặp tôi, nhân tiện để đoán vận cho cấp dưới. Sau khi xem Tứ trụ, lưu niên và tuế vận, tôi khẳng định nói: “Năm 1980 hoặc năm 1989 nhất định bị thương hoặc gặp tai nạn gì đó”. Nghe xong anh ta phủ nhận nói: “Không có, xin ông xem lại cho”. Lúc đó anh bạn tôi nhó lại hộ anh ta: “Sao lại không có? Năm 1989 cậu từ khách sạn đi ra, vội vội vàng vàng đã đập đầu làm vỡ cửa kính, cả đầu và chân không phải bị thương à?” – “Đúng! có việc ấy thật. Lúc đó đầu đầy máu me, xương ống chân lòi ra, miệng vết thương bệnh viện phải khâu mười mấy mũi”.
Ví dụ này đúng là: Hai kiêu cùng gặp, lại gặp đại vận thực thần canh thân. Vì thân vượng, kiêu vượng, có kiêu sinh tỉ kiếp nên dẫn đến tai nạn. Năm 1989 có tai nạn vì vận thân, lưu niên tỵ thêm ngày dần tạo thành tam hình.
IV. TỬ VONG
Hệ từ của “Chu dịch” nói: “Bắt đầu và kết thúc là thuyết biết về cái sống và cái chết”. “Bắt đầu là kết quả của âm dương giao hợp, kết thúc là kết quả của âm dương phân chia”. Trong “Hoàng đế nội kinh – ngọc bản kí yếu biên” chỉ rõ: “Trùng lặp dương thì chết, trùng lặp âm cũng chết”. Người ta một kiểu sống nhưng hàng trăm kiểu chết. Trong chết lại chia ra chết vì bệnh, chết vì tai nạn. Cho dù là chết bệnh hay chết vì tai nạn thì y học hiện đại cũng đều nhận thức rằng đều là do âm dương ngũ hành sinh khắc giữ vai trò quyết định.
Tứ trụ là kho chứa đựng thông tin của cả đời người. Tổ hợp của nó vừa như bảng không chế trình tự của chương trình máy tính, vừa như một phương trình phản ứng hóa học. Nó kết hợp với đại vận, tiểu vận, lưu niển nếu phản ứng cân bằng thì biểu hiện trên cơ thể con người là sự mạnh khỏe, bình yên, vận khí bình thường. Nếu phản ứng thành một kết quả thuận thì đó là điều ta cần, là tốt, nếu trong phản ứng gây ra mất cân bằng hoặc sự bùng nổ, là không thuận, là tai hoạ.
Việc dự đoán thời gian chết của con người là vô cùng phức tạp về nguyên nhân chết, từ mệnh học mà nói đã có vô số loại hình, song, thường gặp nhất, dễ nắm vững nhất là: “Cùng gặp tuế vận”. Thế nào là cùng gặp tuế vận? Đó là can chi của lưu niên và đại vận thống nhất với nhau. Khi từng đại vận mười năm một đi đến “nhâm thân”, lưu niên cũng vừa đúng là năm “nhâm thân”, tuế và vận vừa đúng trùng nhau tức là cùng gặp. Cho nên nồi: “Tuế, vận cùng gặp không chết mình thì cũng chết ngưòi thân khác”
Ví dụ 1. Vì sao Mao Trạch Đông lại mất năm 1976?
Mao Trạch Đông là vĩ nhân của một thế hệ. Trình độ của Người uyên bác, thuộc nhiều sách kinh điển, tinh thông *’Chu dịch”, nghiên cứu sâu mệnh lý học. Trương Ngọc Phương nói: Năm 1974 Thủ tướng đi Trường Sa. Mao Trạch Đông đứng ở cửa mời Thủ tướng vào. Chủ tịch nói luôn một câu: bảy ba, tám tư (câu nói cửa miệng của Hồ Nam) “Diêm vương không mời cũng tự mình đi”.
Tâm tư chính là cổ nhân từ mệnh học tổng kết ra. Khi người ta đến 73, 84 tuổi là lúc gặp cửa ải giữa sống và chết. Cho nên trong tổ hợp Tử trụ của nhiều ông già khi đến tuổi 73, 84 là chết.
Mao Trạch Đông năm 1974 vừa đúng 82 tuổi, Người đã vượt qua cửa ải 73, biết cửa ải 84 là bất lợi, nên thường nói: “73, 84 Diêm vương không mời cũng tự mình đi”. Vì sao Người vẫn luôn tâm niệm đến câu nói đó? Cữ xem Tứ trụ, đại vận và lưu niên của Người ta sẽ rõ: Mao Trạch Đông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893, âm lịch là ngày 19 tháng 11 năm 1893. Tứ trụ là: Sát Ấn Nhật Nguyên Quý tỵ Giáp tý Đinh dậu Trong Tứ trụ tuy không có giờ nhưng không ảnh hưởng đến tính đại vận và lưu niên. Mao Trạch Đông 7 tuổi bắt đầu đại vận. Từ 77 tuổi đến 86 tuổi hành đại vận bính thìn . Năm 1976 là năm Bính thìn , can chi của đại vận, lưu niên giống nhau, cho nên ứng với câu: “Tuế vận gặp nhau, mình không chết thì người thân cũng chết”. Do đó, Mao Trạch Đông mất năm 1976 là vì “Tuế vận cùng gặp” đúng là năm 84 tuổi.
Ví dụ 2. Càn tạo.
Tỷ – Tỷ – Nhật nguyên – Can – Kỉ mão – Kỉ tỵ – Kỉ dậu – Giáp tý
Tháng 6 năm 1986, một ngưòi bạn đưa người làng đến nhờ đoán. Xem qua lưu niên, tuế vận, tôi nói: “Vợ ông mất năm 1985”. Ông ta rất đau buồn nói: Đúng! Người đó năm 42 tuổi hành đại vận ất sửu, lưu niên cũng là ất sửu, vừa đúng “tuế vận cùng gặp”, nên không chết mình thì chết người thân, mà cung vợ dậu nhập mộ ở sửu, nên vợ chết.
Ví dụ 3. Khôn tạo.
Kiếp – Tài – Nhật nguyên – Sát – Đinh tỵ – Tân hợi – Bính tý – Nhâm thìn
Năm 1986, có người bạn cũ đến Tây An công tác, nhờ tôi xem tuổi thọ cho mẹ. Bà đó từ 53 đến 62 tuổi hành đại vận đinh tị, gặp năm 1977 là đinh tị, tức tuế, vận cùng gặp. Bà đó cha mẹ mất sớm, chỉ có một người em gái, con cái đều không có nguy hiểm gì. Vận gặp tuế, vận cùng đến lại cùng cương lĩnh tháng sinh. Cương lĩnh tháng sinh không thể bị xung, nếu đã xung là mười phần nguy hiểm chín. Do đó tôi nói với bạn: “Mẹ anh mất năm 1977”. Không ngờ bạn tôi cười nói rằng: “Đã mấy người đều nói mẹ tôi mất năm 1977, tại sao lại thế nhỉ? Tôi nói mẹ tôi còn khoẻ họ đều lấy làm lạ. Mẹ tôi quả thực năm 1977 bị bệnh nặng, chết đi sông lại mấy lần. Nay muốn nhờ ông xem, tôi nghĩ sao ông cũng nói mẹ tôi đã mất rồi.
Quả đúng như tôi dự đoán. Vì vậy ông nên nghiên cứu xem lại sao?”
Tôi nghe xong cũng rất lấy làm lạ, tìm tòi nghiên cứu mãi. Khi tôi nghiên cứu đến hoa cái trong Tứ trụ thì tìm ra kết luận: “Mẹ anh nhất định là tín đồ Phật giáo, cả đời ăn chay niệm phật, tích thiện tích đức, làm nhiều việc tốt”. “Đúng! Những người khác cũng nói thế. Mẹ tôi theo đạo Phật, suốt đòi thắp hương cầu nguyện. Ông đoán rất đúng, rất đáng tin cậy!”.
Tôi trong nghiên cứu, phát hiện: “Người gặp tuế, vận cùng đến, phần lớn nếu mình không chết thì vợ chết, hoặc cha mẹ, con cái chết”. Nhưng có một sô’ ít trường hợp, không ai chết cả, trong đó có nguyên nhân chung là những người đó là tín đồ của một đạo nào đó, suốt đời tích âm đức. “Tuế vận cùng gặp” tuy là vận hung của mệnh, nhưng chỉ cần đoán được trước thì có thể hóa giải, về mặt này, sau khi tôi hóa giải cho nhiều người, có người không những bình an vô sự mà còn chuyển hung thành cát. Như có một phụ nữ năm 1987 gặp “tuế vận cùng đến”, tôi hóa giải, không những không chết mà cô ta còn được chuyển hộ khẩu về thành phô’, lại tìm được chỗ công tác còn được phân nhà. Do đó, chỉ cần nắm vững mệnh vận, cửa ải sống chết có thể vượt qua. Chỉ sợ là không tin mệnh vận, lại cũng không tin hóa giải được nên không chịu đề phòng.
Ví dụ 4. Càn tạo.
Sát – Tân sửu – Quan – Canh tý – Nhật nguyên – Ất dậu – Tỷ – Ất dậu
Tháng 6 năm 1990 khi tôi dạy học ở Thâm Quyến, gặp một cụ bà tinh thần hoảng hết, khóc thút thít. Hỏi vì sao thì có người nói: “Con cụ là công an, tháng 5 năm 1987 đi công tác phá án bị tai nạn. Từ đó cụ luôn trách đáng lẽ không nên cử con cụ đi công tác. Bây giờ mỗi lần nghĩ đến, cụ lại khóc”. Tôi nghe xong nói với cụ già: “Cụ không nên quá đau khổ, có lẽ tuổi thọ con cụ chỉ có thế. Nếu không đi công tác thì ở nhà cũng không tránh được”. Cụ già không tin và nói cho tôi biết ngày tháng sinh, nhờ tôi đoán.
Trường hợp này từ 24 đến 33 tuổi hành đại vận đinh dậu. Trong trụ đã có hai dậu. Năm 1987 lại gặp thái tuế đinh mão, Tứ trụ và đại vận làm thành ba dậu khắc một mão, một mão xung ba dậu. Đúng là: “Ba dậu xung khắc một mão, chưa từng thấy ai không chết”.
Qua dự đoán, chứng tỏ tuổi thọ con cụ có thế. Tôi nói rõ nguyên nhân con cụ chết năm 1977 cho cụ và mọi người nghe, sau đó cụ mói bình tâm lại và khống trách cơ quan nữa.
Ví dụ 5. Khôn tạo.
Quan – Ấn – Nhật nguyên – Kiêu – Kỉ mão – Tân mùi – Nhâm tý – Canh tuất
Người phụ nữ này vì vận khí không tốt nên tuổi cao vẫn chưa lấy chồng.
Tháng 5 năm 1988 đến hỏi tôi việc hôn nhân sẽ ra sao. Tôi xem qua Tứ trụ, đại vận và lưu niên, phát hiện thấy khó mà qua được tháng 3 năm 1989, liền nhắc nhở thận trọng chú ý và bày cho cách giải. Cô ta ý thức được sự nghiêm trọng, liền tìm đến một người khác nhò xem. Người đó nói là tuy không tốt nhưng không đến nỗi chết, do đó về đã không hóa giải theo tôi bày. Kết quả, cô ta bị bệnh khôi u nằm viện và mất tháng 3 năm 1989.
Người phụ nữ này từ 48 đến 57 tuổi hành-đại vận bính tí, tiểu vận canh tí, như thế gọi là kình dương lại trùng lặp với hung vận kình dương, trong trụ thân nhược, tài quan vượng, năm 1989 là năm kỉ tị, đúng là tài quan ở vượng địa khắc thân. Trong trụ tý tuất củng hợi là lộc, gặp năm tị, lộc bị xung phá. Tháng 3 năm 1989 là tháng mậu thìn là thuỷ mộ kho, nên chết vào tháng 3 năm 1989. Đúng với câu: “Kình dương kiêu gặp kình dương, kiêu, ba kình dương hội với hai kiêu, chắc chắn là chết không nghi ngờ gì nữa”.
V. LAO TÙ
Có người trong Tứ trụ có tiêu chí thông tin lao tù. Điều đó thực ra không đáng sợ. Sợ là sau khi dự đoán ra mà vẫn không nghe lời khuyến cáo, cứ tiếp tục làm bậy, không sợ phạm pháp nên khó tránh khỏi tai họa. Một khi đã dự đoán được tai họa lao tù, cũng giống như bệnh tật, nếu tìm cách hóa giải để phòng tránh là có thể vượt qua được.
Ví dụ 1. Càn tạo.
Tài Sát Nhật nguyên Quan Bính ngọ Mậu tuất Nhâm tý Kỉ dậu Tháng giêng năm 1984, ông Lưu nhờ đoán vận cho con trai. Tôi xem xong Tứ trụ con ông, liền nhắc nhở nói: “Con ông năm nay có họa tù ngục, nửa năm đầu phải tăng cường quản lý giáo dục môi được”. Ông nói: “Con tôi có thể bị tù à? Cháu nó rất thật thà cơ mà! Chắc chắn nó không làm việc xấu đâu”. Tôi thấy ông có vẻ coi thường, nói: “Trong Tứ trụ nó có việc đó, chẳng qua là thời gian chưa đến đấy thôi! Năm nay bại vận đến, rất có thể xảy ra việc ấy”
Năm 1984, kết quả do cướp giật nên con ông bị tù. Cậu này 17 tuổi hành đại vận canh tí, lại là kiêu thần gặp kình dương, năm 1984 là năm giáp tý là thực thần gặp kình dương, ba kình dương tụ hội lại, còn gặp kiêu thần đoạt thực thần, ứng với câu: “Kình dương gặp tuế quân, họa sẽ ập đến”, “Kiêu gặp thực không ốm thì tai họa”.
Ví du 2. Càn tạo
Kiếp – Sát – Nhật nguyên – Quan – Mậu dần – Ất sửu – Kỉ mùi – Giáp tuất
Tháng 12 năng 1986, bà Đỗ nhờ đoán vận cho em trai là giáo sư ở trường đại học. Tôi xem qua Tứ trụ và tuế vận rồi nói: “Em bà năm 1984 có chuyện. Năm 1985 vì chuyện tiền tài mà bị giam”. Bà Đỗ không chờ tôi nói hết đã đứng dậy nói: “Đúng! Đúng!” Trong trụ này quan sát hỗn tập lại hành vận thương quan nên có họa lao tù.
Ví dụ 3. Càn tạo.
Tài – Kiếp – Nhật nguyên – Thực – Mậu thân – Quý hợi – Nhâm thìn – Giáp thìn
Tháng 5 năm 1988, bà Liễu nhờ đoán vận cho con trai. Sau khi đoán xong, tôi nói: “Năm nay con bà có tai họa lao tù. Có thể bây giờ nó đang làm chuyện phạm pháp, cần quản lý chặt chẽ, nếu không ngừng ngay thì tháng 9 năm nay sẽ bị bắt”. Nghe xong bà nói: “Gần đây hành vi của con tôi rất khác thường. Hỏi nó nó chỉ ậm ừ. Vì không yên tâm mà tôi mới nhờ thầy đoán”. Tôi nói: “Nhất định yêu cầu nó không được làm gì phạm pháp. Bà cứ làm theo cách hóa giải tôi bày, dù có bị đau một ít cũng còn hơn tai họa.”
Rất may, cậu này nghe lời khuyên của mẹ, tháng nguy hiểm lại được quản lý chặt chẽ nên dần dần hồi phục bình thường, tuy có bị đau nhẹ nhưng tránh được bị giam.
Ví dụ 4. Càn tạo.
Kiếp – Tỷ – Nhật nguyên – Tỷ – Tân tỵ – Canh dần – Canh tý – Canh thìn
Tháng 5 năm 1991 khi tôi ở Thái Lan ông Sài ở Mianma nhờ tôi đoán vận. Tôi nói: “Ông là người trải qua nhiều gập ghềnh. Năm 1988 vì tiền tài mà bị giam”. “Đúng! Vì hối lộ mà bị tù”. Ông này năm 46 đến 55 tuổi hành tài vận ất dậu. Trong trụ tỉ kiếp nhiều, cho nên “Tỷ kiếp gặp tài tất có tai họa”. Tám năm ngồi tù là vì nhật nguyên tý thuỷ nhập hai lần mộ.
Ví dụ 5. Càn tạo.
Kiêu – Ấn – Nhật nguyên – Kiêu – Bính tuất – Đinh dậu – Mậu tuất – Bính thìn
Tháng 3 năm 1992 khi tôi đang viết sách này ở Thâm Quyến, có một người đến nhờ tôi đoán vận. Tôi xem trong Tứ trụ nói: “Anh năm 1980 gay go, vừa bị tai họa vì chức vụ, vừa bị ốm nặng, suýt nữa thì mất chức”. Vợ anh ta nói: “Quả thực có thế, vì việc của cha mà anh ấy phải đi kiện khắp nơi, lại còn bị viêm ruột thừa nằm viện mổ, suýt nữa bị mất chức”. Trong trụ hai kiêu như hai con hổ, từ 25 đến 35 tuổi hành đại vận thực thần canh tý, năm 1980 lại là năm canh thân gặp thực địa. Đúng là: “Kiêu thần đoạt thực, không ốm cũng tai họa”.