Mệnh tọa cung Ngọ, sao Tử vi nhập mệnh nơi miếu địa, nếu không gặp hai sát tinh Kình Dương và Đà La hoặc sao Hóa Kỵ, là mệnh cách Cực hướng ly minh.
Lại gặp tam hợp cùng chiếu Thiên phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng, nên cũng là mệnh cách Tử phủ triều hằng, được xuất sắc hơn người, hiến giải độc đáo, lý tưởng cao siêu, khí độ hơn người, được thanh cao phúc thọ. Cuộc sống sung túc, phú quý song toàn. Nếu là mệnh nữ thì có thể giúp chồng lợi con, cao quý đoan trang. Nếu hhông có sao Tả phù, Hữu bật cùng cung phò tá thì hhó tránh khỏi tinh thần cảm thấy cô độc mà tính khí khá thô bạo.
Mệnh tọa cung Tý, do sức mạnh phò tá của 6 cát tinh có hạn, bản thân lại hhông có lực, kỵ nhất xung vói 6 sát tinh, dễ trở thành người vì có lý tưởng mà không thể hành động, do đầy bụng oán trách mà trở nên bảo thủ. Mệnh nữ: Là viên ngọc đẹp hhông tì vết, sau này vô cùng xinh dẹp.
Sao Tử vi tại 2 cung Tý, Ngọ, đều là độc tọa, tại cung Tý là ở thế bình, tại cung Ngọ là nhập miếu (chú thích: độ sáng của các sao tại các cung chia thành 7 cấp: miếu, vượng, địa, lợi, bình, không đắc địa, hãm). Lúc này, cung đối diện (cung Thiên di) có sao Tham lang ở thế vượng chiếu vào, cung Tài bạch có 2 sao Thiên tướng (nhập miếu), Vũ khúc (ỏ thế địa), cung Quan lộc có 2 sao Thiên phủ (nhập miếu), Liêm trinh (ở thế lợi), cùng tam hợp hội chiếu.
Vận mệnh cơ bản
Khi sao Tử vi độc tọa thủ mệnh tại 2 cung Tý, Ngọ, do nhiều nhất chỉ có thể có được một trong hai sao Tả phù, Hữu bật đồng cung hoặc cùng chiếu, lực lượng của phò tá không đủ, là người có cá tính độc lập, tính khí thô bạo, tinh thần dễ cô độc, chí lớn khó kéo dài. Nếu tọa thủ tại cung Ngọ nhập miếu thì cát lợi hơn nhiều so với tọa thủ tại cung Tý ở thế bình. Do cung đối diện (cung Thiên di) có sao Tham lang đối chiếu, nên là người thích thể hiện, ưa kích thích, thích cuộc sống nơi đô thị, cuộc sống có nhiều thay đổi, có tính đào hoa, nên tự mình khống chế sắc dục, hướng đến học hỏi phát triển. Cung Tài bạch có Thiên tướng Ân tinh và Vũ khúc tài tinh, nên tài vận hanh thông, giỏi quản lý tài chính và sự nghiệp kinh doanh, đa phần có thể tự tay làm nên sự nghiệp, là người hào phóng trong vấn đề tiền bạc, khi gặp khó khăn thường hay có quý nhân phò trợ, tiền tài có nhiều nguồn, trong giới tài chính, công thương nghiệp có thể được thành đạt lớn. Cung Quan lộc có sao Thiên phủ, Liêm trinh, là người rất chuyên chú vào sự nghiệp, nhậm chức công việc nhà nước, đa phần có thể thể hiện tài hoa, hồi trẻ thiếu ổn định, đến tuổi trung niên thì được phát triển, có thể thu được thành công ngoài ý muốn.
Vận mệnh các năm sinh khác nhau
Người sinh năm Giáp: Sao Liêm trinh tại cung Quan lộc hóa lộc, sao Vũ khúc tại cung Tài bạch hóa khoa. Cung vận rất tốt, công việc thuận lợi, thời trẻ khó phát huy tài năng, đến tuổi trung niên bắt đầu dần dần bộc lộ, về già được yên ổn, cẩn thận đề phòng nữ sắc; có danh vọng, tiền tài ổn định, mọi việc đều theo ý mình, thường phát triển sau tuổi tráng niên, tài danh có thể giữ vững.
Mệnh tọa thủ tại cung Ngọ, với những người sinh năm Giáp Thân, Giáp Tý, Giáp Thìn, hoặc mệnh tọa thủ tại cung Tý, với những ngưòi sinh năm Canh Dần, Canh Ngọ, Canh Tuất, các sao Lộc tồn, Thiên mã (Mệnh mã), Thiên tướng tại cung Tài bạch tam hợp cùng chiếu cung Mệnh, nếu không có Hỏa tinh và Linh tinh xung phá thì là mệnh cách Lộc mã phối ấn, quyền lớn tiền nhiều, càng bôn ba càng có nhiều tiền của, thường có cơ hội phát tài, chuyển chức, chuyển nghiệp khi thay đổi môi trưòng, trong đời có nhiều cơ hội được đi du lịch.
Người sinh năm Ất: Sao Tử vi của cung Mệnh hóa khoa. Trong cuộc sống tất có quý nhân tương trợ, trong nghiên cứu học thuật có biểu hiện xuất sắc, mệnh tọa thủ tại cung Ngọ thì càng được cát lợi.
Mệnh tọa thủ tại cung Tý, với người sinh năm Ất, Kỷ, hoặc mệnh tọa thủ tại cung Ngọ, với người sinh năm Tân, 2 quý tinh Thiên khôi, Thiên việt tại cung Mệnh, cung Tài bạch tam hợp cùng chiếu, là mệnh cách Thiên ất củng mệnh, là người giỏi văn chương, được quý nhân tương trợ.
Người sinh năm Bính: Sao Liêm trinh tại cung Quan lộc hóa kỵ. Trong công việc thường hay tiếc nuối, rơi vào nghịch cảnh, đa phần thích đầu cơ nhưng không được thuận lợi, nên đề phòng việc hành chính quan phủ, mệnh nam thường hay sống dựa dẫm vào phụ nữ.
Mệnh tọa thủ tại cung Ngọ, với người sinh năm Bính, Mậu, sao Kình dương cùng tọa cung Mệnh, là mệnh cách Mã đầu đới tiễn, không chết yểu thì cũng chủ về hình thương, phải sống tha hương, phiêu bạt vô định, gặp nhiều khó khăn. Đến đại vận và tiểu hạn hoặc lưu niên thì bất lợi cho vợ con, dễ sinh chuyện thị phi. Nếu bị bệnh tàn tật ở tuổi trung niên thì phải đặc biệt lưu ý đến sức khỏe.
Người sinh năm Mậu: Sao Tham Lang của cung Thiên di hóa lộc. Là ngươi thông minh, xuất ngoại được hoan nghênh, nhiều tiền của, thường vì quá đam mê tửu sắc, tài, khí khó tránh khỏi đào hoa, có thể tiến tài vật nhiều.
Người sinh năm Kỷ: Sao Vũ khúc của cung Tài bạch hóa lộc, sao Tham lang của cung Thiên di hóa quyền. Có đường phát tài, tài lộc phong hậu, có sức mạnh, thích nắm quyền, duyên phận tốt, xuất ngoại được nhiều tiền của, đào hoa không ít.
Mệnh tọa thủ tại cung Ngọ, với người sinh năm Kỷ giờ Dần, sao Lộc tồn và sao Vũ khúc hóa kỵ cùng tọa cung Mệnh, lại gặp hai sát tinh Kình dương, Đà la kẹp cung Mệnh, là mệnh cách Giáp đà giáp kỵ, chủ về cô độc nghèo khổ, gặp nhiều chuyện thị phi.
Người sinh năm Canh: Sao Vũ khúc ở cung Tài bạch hóa quyền. Tài vận thịnh vượng, bận rộn kiếm tiền, thu được tiền cùa trong hỗn loạn.
Người sinh năm Nhâm: Sao Tử vi ở cung Mệnh hóa quyền, sao Vũ khúc ở cung Tài bạch hóa kỵ. Là người kiên định tự chủ, năng lực mạnh, có tài lãnh đạo, có quyền uy, thích nắm quyền, nhưng không tránh khỏi cô độc; tiền tài, tình cảm đều bất lợi, thưòng vì tiền mà sinh ra phiền não, vất vả nhưng sự nghiệp không thành, tình cảm gặp nhiều trắc trỏ, khó khăn.
Người sinh năm Quý: Sao Tham lang ở cung Thiên di hóa kỵ. Là người đa tài đa nghệ, ra ngoài thường tìm đào hoa, dễ sinh chuyện phong lưu, nên đề phòng tai họa về tửu sắc.
==============
Sao Tử vi tại cung Tý, Ngọ là độc tọa (cung Tý là thế bình, cung Ngọ là nhập miếu), sao Tham lang thế vượng xung chiếu tại cung Phúc đức. Cung Mệnh là sao Thiên phủ nhập miếu và sao Liêm trinh thế lợi, cung Quan lộc là sao Thiên tướng nhập miếu và sao Vũ khúc thế địa, cung Điền trạch là sao Thiên đồng và Cự môn không đắc thế địa, cung Thiên di là sao Thất sát nhập miếu.
PHÂN TÍCH TÀI VẬN
Sao Tử vi ở cung Tý, nếu không có cát tinh tương trợ thì không có tính tự chủ. Nếu có phương hướng quản lý tiền bạc thì có thể được tài phú, đặc biệt khi ở cung Ngọ thì càng rõ rệt, thường có ngành nghề tốt hoặc địa vị rất cao, biết trân trọng tiền tài, biết cách dựa theo thu nhập để chi tiêu hợp lý, cuộc sống tương đối sung túc.
Cung Mệnh có sao Thiên phủ, Liêm trinh cùng tọa thủ, sao Thiên phủ là tài khố, là sao quân vương của Nam đẩu, có tính bảo thủ, đơn thuần, có thái độ lạc quan với cuộc sống. Sao Liêm trinh là sao đào hoa thường hay biến hóa, hướng ngoại phức tạp, kiêu căng không tín, có quyền uy, thích từ thiện, cần mẫn với sự nghiệp, hòa thuận với bạn bè.
Hai sao kết hợp với nhau thì rộng rãi độ lượng, có thái độ hòa bình yên ổn trung dung với mọi việc, nhẫn nhục chịu khó, quan hệ tốt với mọi người, thích hợp công việc quan hệ giao tiếp, thư ký. Vì Thìn, Tuất là cung Thiên la (cung Thìn), cung Địa võng (cung Tuất) tiềm lực rất khó phát huy nên hoài bão cũng khó được thực hiện.
Nếu không có sát tinh xung phá là mệnh cách Phủ tướng triều viên, phú quý song toản. Nếu được Văn xương, Văn khúc hội chiếu là mệnh cách Liêm trinh văn võ, chủ văn võ song toàn. Sao Tham lang tọa cung Phúc đức, thu nhập biến đổi nhiều, thích hưởng thụ, thích nhiều thứ, tùy tiện, khồng để ý đến thế tực, dễ sống với mọi người.
Thiên đồng, sao Cự môn cùng tọa thủ cung Điền trạch, việc xử lý tiền tài có bài bản, nhà ở rộng rãi thoải mái, những năm trung niên và cuối đời có thể có bất động sản. Sao Thiên tướng, Vũ khúc cùng tọa thủ cung Quan lộc, công việc ổn định, tận tâm có trách nhiệm, được trọng dụng, quan hệ xã hội tốt, thành danh muộn, nên phát triển ra vùng bên ngoài. Sao Thất sát tọa cung Thiên di, lực hoạt động mạnh, không ở được trong nhà, có cơ hội ra ngoài nhiều, công việc thường phải cạnh tranh, thích tự thể hiện.