Đặc điểm tính cách chính của 12 cung Hoàng Đạo

Theo định nghĩa cơ bản: Chiêm tinh là một hình thức nghệ thuật sử dụng vị trí của các thiên thể để đưa ra cái nhìn sâu sắc về các khía cạnh tâm lý của một người, cũng như đưa ra các dự đoán về cuộc sống.

Cung hoàng đạo bao gồm 12 cung khác nhau – mỗi cung đều có những đặc điểm tính cách, điểm mạnh, điểm yếu riêng. Vì vậy, nếu bạn đã từng thắc mắc. “Tại sao bạn lại như thế?” về ai đó – thì đây là một phần lớn lý do tại sao.

Đây là hướng dẫn đơn giản của chúng tôi về từng cung trong số 12 cung – ngày, ý nghĩa, biểu tượng, tính cách và đặc điểm của các cung hoàng đạo! 

BẠCH DƯƠNG

(21 tháng 3 – 19 tháng 4)

Yếu tố: Lửa

Màu nguồn: Đỏ

Hành tinh cai trị: Sao Hỏa

Ký hiệu: Con cừu

Táo bạo, tiên phong và can đảm, Bạch Dương là cung hoàng đạo đứng đầu. Họ táo bạo và mạo hiểm và không ngại tấn công vào lĩnh vực không xác định, nơi những người khác sẽ không thể đi. Là một đứa trẻ vĩnh cửu trong trái tim, Bạch Dương luôn tràn đầy năng lượng và nhiệt huyết với cuộc sống. Họ có thể nhanh chóng tức giận, nhưng cũng rất dễ cười và tiếp bước. Những người này có xu hướng tham vọng, năng động và trung thực, dễ cởi mở với mọi khả năng của cuộc sống. Bạch Dương độc lập và thích chia sẻ tính cách bốc lửa của họ với thế giới.

KIM NGƯU

(20 tháng 4 – 20 tháng 5)

Yếu tố: Trái đất

Màu sắc quyền lực: Hồng và xanh lam nhạt

Hành tinh cai trị: Sao Kim

Biểu tượng: Con bò

Nhạy cảm, cương quyết và trung thành, các Kim Ngưu coi trọng sự an toàn và ổn định trên tất cả. Họ tận hưởng những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống và bị thu hút bởi sự khám phá thông qua các giác quan. Họ bị thu hút bởi vẻ đẹp và niềm vui và đầu tư hoàn toàn vào những gì họ tin tưởng. Những người này đặc biệt chăm chỉ và thích có cách tiếp cận thực tế với cuộc sống. Điều này thường khiến họ trở nên xuất sắc về vấn đề tiền bạc và thu hút nó như một thỏi nam châm một khi họ tập trung kỹ năng và tài năng của mình. Sự kiên trì này ngấm vào toàn bộ cuộc sống của họ – vì họ cũng là những người lãng mạn, những người luôn tìm kiếm tình yêu lâu dài và những mối quan hệ dễ chịu. Tuy nhiên, các Kim Ngưu rất chống lại sự thay đổi, điều này có thể khiến họ rất cứng đầu trong việc thay đổi quan điểm của mình. Tuy nhiên, cuối cùng, họ là những người ấm áp, dịu dàng và cực kỳ đáng tin cậy.

SONG TỬ

(21 tháng 5 – 20 tháng 6)

Yếu tố: Không khí

Màu nguồn: Vàng

Hành tinh cai trị: Sao Thủy

Biểu tượng: Cặp song sinh

Nhanh trí, dễ bị kích động và ham học hỏi, Geminis tò mò về mọi thứ. Họ có cái nhìn trí tuệ cao về thế giới, sẵn sàng học hỏi về mọi thứ và mọi người. Là những nhà giao tiếp bậc thầy, họ có năng khiếu linh hoạt và linh hoạt trong việc kết nối với người khác. Được đại diện bởi cặp song sinh, họ có thể có hai mặt tính cách khác nhau, mặc dù một mặt họ thể hiện ra và một mặt họ giấu kín. Họ xử lý mọi thứ một cách lý trí, thay vì chỉ cảm xúc của họ, điều này khiến họ cực kỳ thích nghi với mọi tình huống.

CỰ GIẢI

(21 tháng 6 – 22 tháng 7)

Thành phần: Nước

Màu quyền lực: Bạc và xanh biển

Hành tinh cai trị: Mặt trăng

Biểu tượng: Con cua

Nhạy cảm, dễ xúc động và dễ tiếp thu, Cự Giải thường đặt trọn trái tim mình vào bất cứ điều gì họ tin tưởng. Tuy nhiên, đại diện bởi con cua, họ có một lớp vỏ cứng cần nứt ra trước khi bạn có thể đến được với mặt mềm mại nhất của họ. Những người này cũng có xu hướng rất coi trọng vun đắp đời sống gia đình. Xây dựng một ngôi nhà ổn định và an toàn là rất quan trọng vì họ cần rất nhiều thời gian để sạc lại pin. Mặc dù vậy, Cự Giải cũng được biết là đặc biệt thất thường vì bị ảnh hưởng nặng nề bởi những người, năng lượng và tình huống xung quanh họ.

SƯ TỬ

(23 tháng 7 – 22 tháng 8)

Yếu tố: Lửa

Màu quyền lực: Vàng và cam

Hành tinh cai trị: Mặt trời

Biểu tượng: Sư tử

Sáng tạo, nhiệt tình và đầy kịch tính, các Sư Tử thích sống hết mình. Họ có xu hướng có một sự tự tin bẩm sinh và sự rạng rỡ giúp họ có khả năng dễ dàng khẳng định bản thân và nổi bật giữa đám đông. Họ thường thích được công nhận mọi thứ mà họ mang đến cho thế giới, đôi khi đến mức tự cao hoặc ngạo mạn. Mặc dù vậy, các Sư Tử cực kỳ trung thành, lãng mạn và nghệ thuật, để thể hiện ngọn lửa bên trong họ một cách sống động. Với trái tim rất rộng lớn, họ cũng có thể khá hào phóng với những người mà họ cho là xứng đáng với tình cảm của mình.

XỬ NỮ

(23 THÁNG 8 – 22 THÁNG 9)

Yếu tố: Trái đất

Màu quyền lực: Xanh hải quân và xám

Hành tinh cai trị: Sao Thủy

Biểu tượng: Trinh nữ

Thực tế, chăm chỉ và có óc phân tích, các Xử Nữ vô cùng tài năng trong việc đánh giá chi tiết của bất kỳ tình huống nào và tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề đó. Họ là những nhà tổ chức bẩm sinh và coi trọng sự nhất quán, lòng trung thành và năng suất. Họ đầu tư rất nhiều vào các mục tiêu và kế hoạch của mình nhưng có thể trở nên rất phê phán nếu mọi thứ không phát triển như họ mong đợi ban đầu. Chủ nghĩa hoàn hảo này là thứ có thể phát triển thành một nỗi ám ảnh. Tuy nhiên, vì sự kiên trì và trí tuệ của họ, họ thường có thể tạo ra trật tự khỏi sự hỗn loạn bất kể thế nào. Cuối cùng, các Xử Nữ là những người tốt bụng, vững vàng và đáng tin cậy – họ rất vui khi được giúp đỡ bất cứ ai họ yêu quý.

THIÊN BÌNH

(23 tháng 9 – 22 tháng 10)

Yếu tố: Không khí

Màu quyền lực: Xanh nhạt và hồng

Hành tinh cai trị: Sao Kim

Biểu tượng: Cân

Duyên dáng, xã giao và ngoại giao, Thiên Bình coi trọng hòa bình và sự cân bằng trên tất cả. Họ phấn đấu cho sự công bằng trong cuộc sống và trong các mối quan hệ của họ. Họ cũng có xu hướng tự nhiên bao quanh mình bởi vẻ đẹp và sự sang trọng. Ngoài ra, là những người lãng mạn vĩnh cửu, họ khao khát các mối quan hệ và sẽ lao đầu vào khi họ tìm thấy một người mà họ vô cùng ngưỡng mộ. Tuy nhiên, điều này đôi khi có thể dẫn họ vào tình trạng phụ thuộc. Có năng khiếu giao tiếp, các Thiên Bình cũng là những nhà đàm phán xuất sắc. Họ có xu hướng xử lý cảm xúc của mình bằng trí tuệ nhưng cũng là những người nhạy cảm sâu sắc. Điều này đôi khi có thể khiến họ thiếu quyết đoán, vì họ làm mọi thứ để có thể tránh xung đột.

BÒ CẠP

(23 tháng 10 – 21 tháng 11)

Thành phần: Nước

Màu quyền lực: Đỏ thẫm và đỏ tía

Hành tinh cai trị: Sao Diêm Vương và Sao Hỏa

Biểu tượng: Bọ cạp

Mãnh liệt, đam mê và xảo quyệt, các Bọ cạp là loại người “tất cả hoặc không có gì”. Họ có khả năng tự nhiên mê hoặc người khác, sử dụng trí óc và khí chất mạnh mẽ của họ để chi phối các tình huống và các mối quan hệ. Sâu sắc về tình cảm, họ có thể nghiền ngẫm những cảm xúc tột cùng của mình. Trên tất cả, khao khát sự thân mật và chiều sâu tâm lý, họ xem thế giới như một trò chơi để giành chiến thắng và chinh phục bất cứ thứ gì họ đặt mục tiêu. Với một sức hấp dẫn không thể cưỡng lại, các Bọ cạp có thể khá bí mật, tinh tế. Họ cũng có xu hướng rất kiên định theo cách của họ – không ngừng cho đến khi họ đạt được điều họ muốn. Mặc dù tính dữ dội này có vẻ gây sốc, nhưng các Bọ cạp thực sự coi trọng sự biến đổi và tái sinh thông qua trái tim của họ bất kể tình huống diễn ra tốt hơn hay xấu đi.

CHÒM SAO NHÂN MÃ

(22/11 – 21/12)

Yếu tố: Lửa

Màu nguồn: Tím và xanh đậm

Hành tinh cai trị: Sao Mộc

Biểu tượng: Cung thủ

Mạo hiểm, tự phát và lạc quan, người Nhân Mã khao khát mở rộng và khám phá hơn tất cả. Họ từ chối bị nhốt và khao khát mọi thứ mà cuộc sống ban tặng cho họ. Họ có xu hướng là những người thích du lịch, tìm kiếm những ý tưởng, mối quan hệ và trải nghiệm mới sẽ dạy họ nhiều hơn về bản thân và thế giới. Tuy nhiên, với bản tính bốc đồng và bồn chồn như vậy, họ có thể thấy rằng khó có thể tập trung vào một việc hoặc họ sợ cam kết hoặc trách nhiệm. Người Nhân Mã được sinh ra để tự do, và năng lượng vui vẻ này thường mang lại cho họ một dạng may mắn tự nhiên.

MA KẾT

(22 THÁNG 12 – 19 THÁNG 1)

Yếu tố: Trái đất

Màu quyền lực: Màu xanh lá cây đậm và màu nâu

Hành tinh cai trị: Sao Thổ

Biểu tượng: con dê

Tham vọng, dè dặt và kiên nhẫn, Ma Kết mong muốn xây dựng một cuộc sống có nền tảng vững chắc. Điều này thường khiến họ trở nên đặc biệt chăm chỉ, tập trung vào việc tạo dựng thành công trong sự nghiệp và tài chính. Tuy nhiên, họ cũng coi trọng các mối quan hệ lâu dài bền chặt và cuộc sống gia đình giống như những thành tựu cá nhân. Những người này có kỷ luật và quyết tâm, nhưng đôi khi đến mức thắt lưng buộc bụng. Do tính thực dụng của bản thân, họ thực sự có thể ít cảm xúc hơn những người khác, không muốn bị phân tâm bởi cảm xúc khi việc đối mặt với sự thật không quá khó khăn. Tuy nhiên, bất chấp tất cả, Ma Kết thường có khiếu hài hước để kết nối tốt hơn với những người khác.

BẢO BÌNH

(20 THÁNG 1 – 18 THÁNG 2)

Yếu tố: Không khí

Màu nguồn: Xanh điện

Hành tinh cai trị: Sao Thiên Vương và Sao Thổ

Biểu tượng: Người gánh nước

Trí tuệ, độc lập và hay chiêm nghiệm, các Bảo Bình thường tập trung sâu sắc vào niềm tin và ý tưởng của họ. Họ khao khát kiến ​​thức về cách vũ trụ và xã hội vận hành xung quanh họ. Cởi mở để khám phá các khái niệm mới, một khi họ đã tìm ra phân tích cốt lõi của mình, họ sẽ không dao động trước quan điểm của mình. Một mặt, điều này có thể mang lại cho họ cảm giác sảng khoái khi khám phá thêm về cuộc sống và con người, nhưng mặt khác, nó có thể dễ dàng khiến một Bảo Bình trở nên bướng bỉnh và khó gần. Ngườ iBảo Bình có tính xã hội đặc biệt. Họ thích thể hiện mình là người độc đáo, lập dị và sáng tạo – khác biệt với đám đông.

CUNG SONG NGƯ

(19 THÁNG 2 – 20 THÁNG 3)

Thành phần: Nước

Màu quyền lực: Xanh lục nhạt và xanh ngọc

Hành tinh cai trị: Sao Hải Vương và Sao Mộc

Biểu tượng: con cá

Có trí tưởng tượng, trực giác và tình cảm, Song Ngư thường là những người có tâm hồn già dặn. Họ có mối liên hệ bẩm sinh với thế giới thần bí và tâm linh, thường bị thu hút bởi những trải nghiệm lãng mạn, sáng tạo hoặc biến đổi sâu sắc. Họ đặc biệt giàu lòng nhân ái và nhạy cảm, thường đặt nhu cầu của người khác lên trước bản thân. Họ là những người bạn tuyệt vời, tận hưởng một cuộc sống xã hội sống động với nhiều người độc đáo. Khả năng đồng cảm cao. Tuy nhiên, điều này có thể khiến họ trở nên choáng ngợp hoặc dễ bị người khác ảnh hưởng. Một khi điều này xảy ra, Song Ngư cuối cùng có xu hướng thoát ra tự do để chạy theo một cuộc hành trình mới, mãi mãi không ngại tái tạo chính mình.

“The Little Drummer Boy”

Chú Bé Đánh Trống (The Little Drummer Boy), còn được biết đến với tên gọi “Carol of the Drum” được nữ nhạc sĩ Katherine K. Davis sáng tác vào năm 1941. Bài hát nổi tiếng không chỉ bởi giai điệu du dương trầm bổng mà còn vì ý nghĩa thâm sâu, thấm đẫm trong từng lời nhạc.

Bài hát kể về câu chuyện của một cậu bé nghèo. Vào đêm Giáng sinh đầu tiên, khi ba nhà thông thái từ phương Đông đến mừng Chúa Jesus ra đời, họ gọi cậu theo.

Các nhà thông thái kia ai cũng mang những món quà quý giá như trầm hương và vàng. Còn cậu chỉ là một đứa bé nghèo khó nên chẳng có gì để làm quà ngoài chiếc trống của mình.

Sau khi được Mẹ Maria cho phép, cậu đã sử dụng chiếc trống của mình để tấu lên điệu nhạc trọng thể, làm quà kính dâng ngày Chúa giáng sinh.

Tiếng trống của cậu, là bản nhạc cậu đã chơi với cả tấm lòng đơn sơ. Kỳ diệu thay, Chúa Jesus mặc dù chỉ vừa mới sinh ra, có vẻ như hiểu, ngừng khóc và mỉm cười với cậu bé đánh trống tỏ vẻ hài lòng.

Câu chuyện cậu bé nghèo không có quà gì cho Chúa Jesus ngoài tấm lòng thành kính đã làm cho nhiều người cảm động và cảm thán. Đâu cứ phải có nhiều vàng bạc, của cải thì mới là quà cho Chúa, cũng chưa chắc Chúa đã mỉm cười và nhận những thứ đó. Chỉ cần một tấm lòng thành kính và một trái tim thuần khiết thôi cũng khiến Ngài mỉm cười rồi.

Ca khúc được viết với giai điệu đơn giản nhưng vẫn quyện vào nhịp 4/4 với tiết tấu rộn ràng. Bài hát chỉ là một đoạn nhạc, câu nhạc lại ngắn gọn, nhưng được lặp đi lặp lại. Sau môi câu ngắn đều có tiếng “gõ” theo nhịp trống: Pa-rum-pum-pum-pum. Tuy đơn giản nhưng bài ca đã đi vào huyền thoại và được nhân loại biết đến như một lời cầu nguyện khi dịp Giáng sinh về.

Cùng lắng nghe lại bản gốc:

Come they told me, Pa rum pum pum pum
A new born king to see, Pa rum pum pum pum
Our finest gifts we bring, Pa rum pum pum pum

To lay before the king, Pa rum pum pum pum,
Rum pum pum pum, Rum pum pum pum

So to honor him, Pa rum pum pum pum
When we come, Pum pum pum pum
Pa rum pum pum, Pum pum pum pum
Pa rum pum pum, Pum pum pum pum
Pa rum pum pum, Pum pum pum pum pa rum

Little baby, Pa rum pum pum pum
I am a poor boy too, Pa rum pum pum pum

I have no gift to bring, Pa rum pum pum pum
That’s fit to give our king, Pa rum pum pum pum,
Rum pum pum pum, Rum pum pum pum

Shall I play for you, Pa rum pum pum pum
Pa rum pum pum, Pum pum pum pum

Mary nodded, Pa rum pum pum pum
The ox and lamb kept time, Pa rum pum pum pum

I played my drum for him, Pa rum pum pum pum
I played my best for him, Pa rum pum pum pum,
Rum pum pum pum, Rum pum pum pum

Then he smiled at me, Pa rum pum pum pum
Me and my drum

Tạm dịch: 

Lại đây – Người ta bảo với tôi, Pa-rum-pum-pum-pum
Đến xem Đức vua mới chào đời, Pa-rum-pum-pum-pum
Những món quà tốt lành nhất mà họ mang tới, Pa-rum-pum-pum-pum

Đặt trước Đức vua, Pa-rum-pum-pum-pum
Rum-pum-pum-pum, Rum-pum-pum-pum

Để tỏ lòng thành kính Ngài, Pa-rum-pum-pum-pum
Khi chúng ta đến

Em bé nhỏ, Pa-rum-pum-pum-pum
Con là một cậu bé nghèo, Pa-rum-pum-pum-pum

Con không có quà để mang đến, Pa-rum-pum-pum-pum
Quà thích hợp để tặng Đức vua, Pa-rum-pum-pum-pum
Rum-pum-pum-pum, Rum-pum-pum-pum

Thế nên con muốn chơi nhạc cho Ngài, Pa-rum-pum-pum-pum
Pa-rum-pum-pum-pum

Mary gật đầu, Pa-rum-pum-pum-pum
Trâu và cừu giữ canh thời gian, Pa-rum-pum-pum-pum

Con chơi trống của con cho Ngài, Pa-rum-pum-pum-pum
Con cố chơi hay nhất vì Ngài, Pa-rum-pum-pum-pum
Rum-pum-pum-pum, Rum-pum-pum-pum

Và Ngài đã mỉm cười với con, Pa-rum-pum-pum-pum
Con và cái trống của con

Nhạc khúc “Thiên ngoại phi tiên”

Khúc nhạc miêu tả tiên cảnh trên thiên giới, kỳ ảo huyền diệu. Một đỉnh núi cao vút xuyên các tầng mây đến đỉnh trời, sông suối chảy mãi không ngừng róc rách ngân nga, tụ thành sóng lớn cuồn cuộn trào xuống thành thác nước.

Thiên ngoại phi tiên

Chúng thần tiên bay qua cổng trời, bay qua làn khói sương trong ánh hào quang vạn dặm!

Phật quang phổ chiếu mười phương, Phật chủ vĩ đại hiển hiện đưa tầng tầng lớp lớp chúng Thần cưỡi mây hạ phàm cứu độ chúng sinh.

Triệu triệu chúng Thần hạ phàm để cứu độ chúng sinh

Đại Pháp đệ tử triển hiện thần thông, lập chưởng trừ ma, ức vạn chúng sinh đắc cứu, đại địa tái hiện quang minh, Phật Đạo Thần bạch nhật phi thăng, chúng Thần quy vị!

Tây Du Ký 1986 – Những nhạc khúc bất hủ

“Xin hỏi đường ở nơi nào” ra đời cách đây 30 năm và được xếp vào hàng ca khúc nhạc phim tiếng Hoa nổi tiếng nhất mọi thời. Đến nay, bài hát này vẫn được nhiều ca sĩ gạo cội thể hiện trong các buổi trình diễn hoặc được chọn làm nhạc nền tại sự kiện. Năm 2001, tác phẩm dẫn đầu trong một cuộc bình chọn ca khúc được người Hoa yêu thích nhất.

“Xin hỏi đường ở nơi nào” do Hứa Kính Thanh sáng tác nhạc, Diêm Túc viết lời. Ca từ không dài nhưng chứa đựng nội dung phong phú, vừa ca tụng sự dũng cảm trừ yêu diệt tà của Tôn Ngộ Không vừa khắc họa tinh thần vượt khó của bốn thầy trò Đường Tăng. 

Đạo diễn Dương Khiết cho biết bà đặc biệt thích câu “Bao mùa xuân hạ thu đông, bao hồi cay đắng ngọt bùi, xin hỏi đường ở nơi nào, đường ngay dưới chân thôi”.

Giai điệu “Xin hỏi đường ở nơi nào” đến từ những hình ảnh rất bình dị trong cuộc sống. Một hôm khi đang ngồi trong phòng suy nghĩ nên sáng tác như thế nào, Hứa Kính Thanh nhìn ra bên ngoài thấy một người làm thuê đang ăn cơm hộp. Ăn xong, anh vừa ngân nga hát vừa gõ lên chiếc hộp. Cảm hứng khúc dạo đầu bài hát đến từ đó.

Một lần khác, khi đang đi trên phố, Hứa Kính Thanh nhìn thấy rất nhiều sạp hàng bên ngoài Vườn bách thú. Tiếng rao bán vang lên khắp nơi. “Nhìn thấy bao người bôn ba vì cuộc sống, lòng tôi bỗng dậy lên rất nhiều cảm xúc. Điệu nhạc vang lên trong đầu”. Lúc đó không mang giấy bút, Hứa Kính Thanh bèn xé bao thuốc lá cất trong túi, chạy đi mượn một cây bút chì và viết những nốt nhạc trên vỏ bao thuốc lá.

Nhạc sĩ họ Hứa sử dụng âm thanh điện tử, guitar, trống điện tử cho ca khúc của mình. “Trước tôi, hầu như chưa có ai dùng nhạc điện tử trong phim truyền hình Trung Quốc”, nhạc sĩ nói.

Sáng tác ca khúc là cảm hứng, tài năng của nhạc sĩ, còn ca khúc có được chọn làm nhạc phim hay không là chuyện khác.

Lúc mới ra đời, “Xin hỏi đường ở nơi nào” bị báo chí chê không phù hợp. Cấp trên của Dương Khiết cũng đưa ra những ý kiến rất khắc nghiệt. Các chuyên gia âm nhạc bấy giờ cho rằng bài hát chủ đề quá “Tây”, nhất là việc sử dụng âm thanh điện tử. Họ nhận xét thứ âm nhạc này không thể dùng cho danh tác cổ điển. Những phản hồi này làm nhạc sĩ họ Hứa vô cùng thất vọng, ông ngỡ mối hợp tác với đạo diễn đã chết yểu.

Thực tế không diễn ra như thế. Trong cuốn sách của mình, đạo diễn Dương Khiết viết bà không thể không suy nghĩ về góp ý của cấp trên song với vai trò đạo diễn, bà cần có chủ kiến chứ không thể làm việc theo kiểu “đẽo cày giữa đường”. Nữ đạo diễn cho rằng bà đã mất nhiều thời gian, công sức để tìm được bản nhạc chủ đề ưng ý và quyết không thay đổi, trừ khi tìm được bản ưng ý hơn.

Bộ sưu tập đầy đủ các bản nhạc trong phim Tây Du Ký

Vì thế, Dương Khiết viết một bức thư cho cấp trên với lời lẽ kiên quyết:

“Tôi nghĩ vấn đề của nhạc phim không nằm ở chỗ quê mùa hay Tây hóa. Tây du ký là phim thần thoại, không bị hạn chế bởi yếu tố thời đại hay khu vực. Trong phim có Ngọc Hoàng trên trời, Diêm Vương dưới đất, Long Vương dưới biển… Họ là người của thời đại nào?… 

Còn nữa, thế giới thần tiên kỳ diệu trên trời dưới bể là của khu vực nào? Bắt nhạc Tây du ký phải mang hơi thở thời đại, địa danh, chẳng phải là sự thiếu hiểu biết với câu chuyện thần thoại? Thế giới của Tây du ký vô cùng khoáng đạt, trí tưởng tượng của chúng ta cũng nên phong phú bay bổng. Nếu chỉ dùng các nhạc cụ truyền thống chẳng phải quá đơn điệu sao?”.

“Tôi không đồng ý thay ca khúc chủ đề, vì bài hát của Hứa Kính Thanh phóng khoáng, réo rắt và mới mẻ. Anh ấy không nổi tiếng nhưng có hề gì, tôi không cần danh tiếng của anh ấy mà cần ca khúc”, bà viết thêm.

Sau đó Dương Khiết nhấn mạnh với cấp trên rằng bà là đạo diễn của Tây Du Ký và phải chịu trách nhiệm về nghệ thuật của tác phẩm. Bà yêu cầu vị này không can dự vào công việc của bà. Nhờ sự quyết liệt đó, Xin hỏi đường ở nơi nào (Tưởng Đại Vi thể hiện) trở thành ca khúc xuyên suốt tác phẩm, cũng là bài hát vang lên trên trường quay Tây du ký, khích lệ tinh thần của đoàn làm phim trong thời kỳ thiếu thốn.

Giải oan cho vua Mạc Đăng Dung, vĩ nhân bị lịch sử vùi dập

“Quân quyền Thần thụ” nghĩa là người lên làm vua là do mệnh trời quyết định, cho nên bất cứ một triều đại nào muốn lên ngôi đều phải được công nhận là chính thống thì mới lâu dài được.

Tuy nhiên, nhà Mạc (1527-1677) trong lịch sử lại là một ví dụ khá đặc biệt khi đã đường hoàng đánh bại hết các đối thủ chính trị và đăng quang cai trị gần 150 năm (trong đó có 66 năm ngự ở Thăng Long với 5 đời vua) mà vẫn bị lên án và xem là ngụy triều. Trong đó Mạc Thái Tổ Đăng Dung lại bị các sử gia thời sau chê trách rất nhiều.

Mạc Đăng Dung lên ngôi, mở ra triều đại kéo dài hơn trăm năm không kém một triều đại nào trong lịch sử Việt Nam, vậy thì vì lẽ gì mà lại bị chê bai như thế, liệu những điều đó có xác đáng hay không? Chúng ta sẽ cùng xem lại hành trạng của vị vua lắm tài nhiều tiếng này.

Hàn vi làm nên đại nghiệp, sánh với Đinh Tiên Hoàng Đế

Mạc Thái Tổ (1483-1541) tên thật là Mạc Đăng Dung, là hoàng đế sáng lập ra triều đại nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông là người đã đánh dẹp các thế lực cát cứ chống đối triều đình, loại bỏ ảnh hưởng của những người ủng hộ nhà Lê, thành lập nhà Mạc.

Cuộc đời ông có nét giống với Đinh Tiên Hoàng và Khai tổ nhà Trần vì ông xuất thân hàn vi, là một người đánh cá (nhà Trần xuất thân cũng từ nghề đánh cá), gia đình ba đời không có ai thi cử đỗ đạt nhưng nhờ võ công cao cường ông đã thi đỗ võ trạng nguyên dưới triều Lê Uy Mục. Đây cũng là bước khởi đầu cho sự nghiệp của ông, từ chức võ quan cấp thấp Mạc Đăng Dung đã vươn tới tột bậc quyền lực vào năm 1527 khi được thăng tới chức Thái sư, tước An Hưng vương thời Lê Cung Hoàng. Sau khi dẹp hết các thế lực cát cứ và chống đối, ông đã trở thành Khai quốc Hoàng đế của nhà Mạc.

Số mệnh của ông đã được định làm vua nước Nam. Tương truyền tại bến đò trước khi lên đường đi thi Võ trạng nguyên, Nhữ Thị Thục, một nhà tướng số nổi tiếng đồng thời là mẹ của Trạng Trình đã biết trước rằng Mạc Đăng Dung sẽ trở thành vua:

“Thấy ông lão lái đò rạp mình khúm núm khi bước qua mặt người phụ nữ, Đăng Dung biết đó không phải là người bình thường. Tiễn anh em Đăng Dung lên tận bờ đê, ông lão nói: “Đấy là nhà chị Thục, con gái quan Nhữ Thượng thư”. Nhữ Thị Thục, con quan Hộ bộ Thượng thư Nhữ Văn Lan, tiếng nghe đã lâu bây giờ mới giáp mặt – Đăng Dung nghĩ – Thảo nào kiêu kỳ thế không biết!”.

Nhữ nương quả thật là người kiêu kỳ. Nhưng đó là với người khác, vào lúc khác, bởi lúc này đây nàng đã mất hết sự tự chủ. Chờ ông lái đò trở lại, Nhữ nương hỏi lúc nãy trên đò là ai. Nghe ông lão nói, nàng bảo: “Ông không biết đâu, tướng người ấy là tướng quân vương!”.

Nhữ nương ngẩn ngơ nhìn theo bóng Mạc Đăng Dung mãi, khiến ông lái đò không khỏi cười thầm trong bụng: Phải lòng mất rồi chị chàng ơi! Chả nhẽ tiếc vì đã có chồng, không thì sẽ lấy người ta hay sao? Đến gấp đôi tuổi người ta chứ ít à? Thảo nào cứ nghe thiên hạ nói chị ta lắm lúc như người cuồng!” (trích truyện Mạc Đăng Dung của Lưu Văn Khuê).

Mệnh trời đã định ngôi Thiên Tử rơi vào ai thì người ấy được, ý người có muốn thay đổi cũng không được, kể cả hoàng đế đương quyền. Sử chép:

Năm 1511, Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên bá, bây giờ các thuật sĩ, hào kiệt nói với vua rằng phương đông có sắc khí thiên tử. Vua Lê Tương Dực sai đại thần Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ra Đồ Sơn, Hải Phòng, tức quê của Mạc Đăng Dung trấn yểm. Đăng Dung đi trong chuyến đó mà không ai biết”.

Định Nam Đao – Võ công đệ nhất nước Nam

Ở Mạc Đăng Dung có rất nhiều điểm giống với các vị hoàng đế khai quốc danh tiếng của các triều đại lớn. Ngoài Lý Thái Tổ, đệ nhất ngoại môn đệ tử của Phật gia ra thì Mạc Đăng Dung chính là vị hoàng đế hiếm hoi mang một thân võ công kinh nhân, đạt giải võ trạng nguyên. Ngoài ra ông còn giống một vị vua khác là Lưu Bị thời Tam Quốc ở điểm có hai huynh đệ mưu trí và võ công cao cường cùng phò anh mình làm nên đế nghiệp. Đó chính là Mạc Đốc và Mạc Quyết, cả hai sau này đều trở thành tướng lãnh trụ cột của nhà Mạc.

Cuộc đời binh nghiệp hiển hách của Mạc Đăng Dung dần trở nên sáng tỏ khi hậu thế phát hiện ra thanh đao trứ danh, vũ khí tùy thân của ông, gọi là Định Nam Đao, một thanh đao nguyên vẹn của hoàng đế hiếm hoi còn lại trên thế giới.

Theo câu chuyện lưu truyền trong dân gian, một người thợ rèn bí ẩn thấy tướng mạo khác thường của chàng trai Mạc Đăng Dung, làm nên nghiệp lớn không phải bằng con đường kinh sử mà là võ học. Chính vì vậy, người thợ đã rèn thanh long đao như một lời nhắn ngầm Mạc Đăng Dung sẽ thành thiên tử từ chính binh khí này. Sau khi rèn xong, ông để lại cây long đao kèm với một bài kệ đại ý là: “ Cơ nghiệp sẽ dựng nên từ đây, cây đao này chỉ dành cho người có duyên, dùng nó sẽ làm nên đại sự ”.

Thanh Định Nam Đao (Ảnh: wikipedia.com)

Mạc Đăng Dung đã dùng thanh đao này khởi đầu binh nghiệp bằng cuộc thi Võ Trạng Nguyên với ngôi đầu.

Trong số các lực sĩ trúng tuyển thì những người xuất sắc gọi là Đô lực sĩ xuất thân, ngang hàng như Đồng tiến sĩ xuất thân bên văn chương, trong đó đỗ đầu là Đô đầu Đại lực sĩ, ba người tiếp theo là Đại lực sĩ, cũng vinh hạnh như các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp bên văn khoa.

Từ khi gặp Lê Bá Ly và Nguyễn Bỉnh Đức, anh em Mạc Đăng Dung quyết tâm luyện tập. Đăng Dung thuê thợ rèn tạo cho mình chiếc đao nặng hơn 42 cân (*), Mạc Đốc thanh kích, Mạc Quyết ngọn thương ” (trích truyện Mạc Đăng Dung).

Tại khu tưởng niệm nhà Mạc ở Hải Phòng hiện thờ thanh đao ngày xưa của Mạc Đăng Dung, dài 2,5m, nặng 25,5 kg (với trọng lượng tính theo cân ta, 1 cân = 0,605 kg). Cần phải biết thanh đao của Ngô Tam Quế đời Thanh (Trung Quốc), một danh tướng rất khoẻ, hiện thờ ở Kim Điện, Côn Minh, tỉnh Vân Nam, chỉ nặng 13 kg. Thanh Long Yển Nguyệt Đao của Quan Vũ nổi danh lịch sử cũng chỉ nặng hơn 18 kg.

Nghĩa là võ công của Mạc Đăng Dung đã đạt đến đỉnh cao với nội lực thâm hậu hiếm có, ông quả là xứng danh hào kiệt số 1 Việt Nam thời đó vậy.

Bình định thiên hạ – Cả nước theo về – Lên ngôi Thiên tử

Một vị hoàng đế trong quá trình gây dựng sự nghiệp, muốn thu được lòng dân tất phải có nhiều công lao trong việc chỉnh đốn triều cương, dẹp loạn và nội trị. Trong sự nghiệp của mình, Mạc Đăng Dung đã xuất sắc hoàn thành những việc ấy, đến nay còn ghi trong sử:

Đầu tiên là chỉnh đốn triều cương, giết những quan lại tha hóa và những tà đạo nhiễu loạn nhân gian:

Thời ấy có Trần Khắc Xương mượn đạo Thiên vũ, Thiên bồng mê hoặc dân, Mạc Đăng Dung dâng sớ xin trị tội, lại hạch một số viên quan mê tín tà thuyết. Nhà vua nghe theo, giết những người ấy. Thiệu quốc công Lê Quảng Độ hàng phe nổi dậy Trần Cảo, Mạc Đăng Dung cũng dâng sớ khuyên nhà vua đem chém vì tội bất trung, vua cũng nghe theo. Từ đấy, nhà vua tin Mạc Đăng Dung là người trung trực, càng thêm ân sủng”.

Kế đến là chỉnh đốn binh mã, giúp vua dẹp yên quần hùng để thâu tóm binh quyền vào tay:

Năm 1518, Mạc Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên hầu, ra trấn thủ Hải Dương. Tại đây Đăng Dung thu thập hương binh, chỉnh đốn quân ngũ, quân số ngày càng đông.

Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thuỷ bộ vây Lê Do ở Từ Liêm, rồi phá đê cho nước vỡ vào quân Lê Do. Do và Nguyễn Sư chạy đến Ninh Sơn, bị Đăng Dung bắt được, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hoá. Các tướng Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng Mạc Đăng Dung. Chiêu Tông phong Mạc Đăng Dung làm Minh quận công. Ông một mình nhân cầm quân dẹp loạn mà từ đó nắm hết quyền bính, vua hồi Kinh sư, việc thiên hạ tạm yên ”.

Tiếp đó khi thế lực đã mạnh, chính là quét sạch tứ phương để lên ngôi Thiên tử:

Năm 1520, Đăng Dung được vua sai làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh, lấy Phạm Gia Mô làm tán lý quân vụ. Năm sau, lại được phong làm Nhân quốc công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo, tháng 7 lại gia phong Đăng Dung làm Thái phó.

Năm 1522, Lê Bá Hiếu nổi dậy chống triều đình ở vùng Đông Ngàn, Gia Lâm. Mạc Đăng Dung lại mang quân đi đánh dẹp được. Mạc Đăng Dung lập nhiều công lớn, dẹp được nhiều lực lượng chống đối triều đình nên quyền lực của ông càng lớn. Sử gia Lê Quý Đôn viết rằng: “Công danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục”.

Năm 1524, Mạc Đăng Dung nắm chức Bình Chương quân quốc trọng sự, Thái phó, tước Nhân quốc công. Sau đó Mạc Đăng Dung tiếp tục đánh dẹp các lực lượng trung thành với Lê Chiêu Tông do các tướng Giang Văn Dụ, Hà Phi Chuẩn đứng đầu.

Ông tiêu diệt các tướng chống đối. Các lực lượng chống đối đều bị dẹp, mọi quyền lực đều thuộc về Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lui về Cổ Trai nhưng vẫn chế ngự triều chính.

Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích. Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Sử gia Lê Quý Đôn chép: “Lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô. Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức là vua Mạc Thái Tổ. Ông chính thức lập ra nhà Mạc”.

Trái với những lời nhận xét mang tính hạ thấp của sử cũ luôn cho rằng ông là người thoán nghịch, là ngụy triều, chúng ta thấy rất rõ rằng Mạc Đăng Dung chính là một vị vua chân chính đã hoàn thành sự nghiệp bằng chính tài thao lược và trí dũng vô song của mình. Ông chính là anh hùng lập thân thời loạn như Đinh Tiên Hoàng, một võ tướng tài năng và một chính khách vô cùng khôn ngoan biết thu phục nhân tâm.

Trong số các đối thủ chính trị từ cao nhất là vua Lê vốn nổi tiếng bất tài cho đến các quân phiệt như Trần Cảo, Trần Cung, Trần Tuân, Trần Chân, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh Duy Sản, Trịnh Tuy,… không ai có đủ tài năng và uy tín hơn Đăng Dung. Ông lên ngôi ngay lúc đường đường chính chính tiêu diệt kẻ thù và được thiên hạ theo về, vậy cớ gì lại nói triều đại của ông là ngụy triều?

Đức sáng thu nhân tâm – Dùng người không nghi ngờ

Vốn xuất thân hàn vi lại ít học nhưng Mạc Đăng Dung vẫn lập nên công nghiệp hiển hách với sự phò tá của rất nhiều tướng lĩnh và văn thần nổi tiếng. Trong bối cảnh triều Lê thống trị với rễ sâu gốc dày mà ông vẫn lập được triều đại của mình và cai trị ổn định suốt thời gian dài, đó chính là bản lĩnh chân chính của chàng ngư phủ họ Mạc này.

Mạc Đăng Dung còn được các sử gia sau này đánh giá cao ở cách đối nhân xử thế. Khi Mạc Đăng Dung phế bỏ nhà Lê Sơ để lên ngôi, ông đã không thi hành một cuộc tàn sát hay tắm máu nào đối với con cháu nhà Lê và những người trung thành với cựu triều như cách mà nhà Lý, Trần, Hồ đã làm khi chiếm ngôi báu.

Mạc Đăng Dung cũng không xâm phạm hay tàn phá các di tích kiến trúc của nhà Lê Sơ, mà còn cho tu bổ lại các công trình như nhà Quốc Tử Giám ở Thăng Long và lăng mộ các đời vua Lê tại Lam Kinh (Thanh Hóa). Đây cũng được coi là việc làm hiếm thấy trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam, bởi triều đại mới lên thường xóa bỏ hay phá hủy những gì được coi là “tàn tích” của triều đại cũ bất kể nó có giá trị hay không.

Ngoài đó ra thì điểm “đặc biệt” nổi bật nhất trong hành trạng của Mạc Đăng Dung là khả năng dùng người và trọng đãi nhân tài của ông. Một bộ phận lớn quan lại, đại thần của triều cũ (Lê Sơ) vẫn được tin dùng và trao giữ những chức vụ quan trọng dưới triều Mạc. Có lẽ cách hành xử linh hoạt, cởi mở như vậy là do ông xuất thân ở vùng biển nơi cư dân có cái nhìn thực tế, hướng ngoại và ít bị ràng buộc bởi những tư tưởng bảo thủ truyền thống như những cư dân trong nội địa vốn chủ yếu sống bằng nông nghiệp vào thời đó.

Sách“Vũ trung tùy bút” của tác giả Phạm Đình Hổ thời Lê Trung Hưng đã viết: “Cái đức chính của thời Minh Đức (niên hiệu của Mạc Thái Tổ) và Đại Chính (niên hiệu của Mạc Thái Tông) nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên thời vận đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết…”.

Tích xưa còn lưu câu nói nổi tiếng của Tào Tháo, một trong những lãnh đạo dùng người giỏi nhất thời Tam Quốc: “Đã dùng thì phải tin, nếu không tin thì đừng dùng”. Câu nói này thể hiện thuật dùng người của Mạc Đăng Dung, yếu tố đem lại sự thành công trong đại nghiệp của ông. Một vị hoàng đế như vậy thiết nghĩ cũng là khó thấy trong lịch sử nước nhà vậy.

Ngộ biến tùng quyền – Đại nhẫn thành tội nhân

Tuy là vị hoàng đế nổi tiếng với nhân cách và tài năng, nhưng dường như “trời ganh ghét người tài” nên ông lại là vị hoàng đế phải hứng chịu những lời chê bai nặng nề nhất từ các sử gia thời sau. Phổ biến nhất chính là chê bai ông là kẻ hèn nhát, bán nước và cướp ngôi.

Trong số những nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại, học giả nổi tiếng cả về Cựu học và Tân học Trần Trọng Kim có lẽ là người chỉ trích Mạc Đăng Dung kịch liệt hơn cả:

“Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp ngôi, ấy là người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cửi trần ra trói mình lại, đi đến quỳ lậy trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ. Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cơ nghiệp dựng nên bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy mà con cháu họ Lê lại trung hưng lên được…” (Trích trong Việt Nam Sử Lược).

Chúng ta hãy xem xét từng trường hợp để xem những lời nhận xét trên có đúng hay không?

Đầu tiên, Mạc Đăng Dung không phải kẻ cướp ngôi, ông chính là anh hùng lập thân thời loạn, bằng võ công và mưu lược của bản thân mà làm nên đại sự. So với Tào Tháo, Đinh Tiên Hoàng thì không hề hổ thẹn. Đối thủ của ông là vua Lê nhu nhược bất tài, hào kiệt các nơi nổi lên như ong làm cho thiên hạ đại loạn. Ông đánh bại hết tất cả trên sa trường mà lên ngôi, sao lại nói là cướp ngôi? Chẳng phải ngai vàng trong lịch sử đều chuyển từ hôn quân triều đại cũ sang minh quân triều mới là gì? Nếu ông là thoán nghịch thì Lý, Trần, Hồ, cho đến Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh chẳng phải cũng vậy hay sao?

Mạc Đăng Dung không phải kẻ cướp ngôi, ông chính là anh hùng lập thân thời loạn, bằng võ công và mưu lược của bản thân mà làm nên đại sự. (Ảnh: vietlist.us)

Thứ hai là về việc cắt đất cầu hòa với nhà Minh. Điều này được ghi lại từ bộ “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” ra mắt vào thời Lê Trung Hưng, kẻ thù không đội trời chung với nhà Mạc nên có nhiều xuyên tạc và luận cứ sai lầm.

Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu rất kỹ về vấn đề này và đã có những suy luận hết sức thuyết phục.

Nhà nghiên cứu Huệ Thiên trong bài viết “Mạc Đăng Dung có dâng đất cho nhà Minh hay không?”:

“Bằng quan điểm chính thống đến mức cực đoan, Phạm Công Trứ không những đã kịch liệt lên án hành động “tiếm ngôi” của Mạc Đăng Dung mà còn không ngần ngại dùng cả thủ đoạn xuyên tạc sự thật để bôi nhọ nhân vật đã sáng lập ra nhà Mạc nữa. Chứng cứ về sự xuyên tạc đó là đã hai lần ĐVSKTT chép việc Mạc Đăng Dung dâng đất cho nhà Minh.

Lần đầu tiên bộ sử này ghi: “Năm Mậu Tí (1528) Mạc tiếm hiệu Minh Đức thứ 2 (…) Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với nhà Minh rằng là họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng. Nhà Minh không tin (…) Đăng Dung sợ nhà Minh đem quân sang hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai hình người bằng vàng bạc cũng là châu báu của lạ, vật lạ, nhà Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại” (ĐVSKTT, Tập IV – trang 121- 122).

Việc ghi chép này hoàn toàn sai sự thật. Quy, Thuận chính là Châu Quy Hoá và Châu Thuận An. Hai châu này thuộc về Trung Hoa vào thời nhà Tống từ những năm 60 của thế kỷ XI.

… Lần thứ hai mà ĐVSKTT ghi chép về việc “dâng đất” của Mạc Đăng Dung là như sau:

“Canh Tí (1540) Mạc Đại Chính năm thứ 11 (…) mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung (…) dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Lim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát, An Lương, La Phù của Châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc, lệ vào Khâm Châu…” (ĐVSKTT, tập IV, trang 131-132).

Đây là tư liệu chính mà các sách lịch sử về sau của ta luôn nhắc đến để kết tội Mạc Đăng Dung. Trước hết cần nói rõ là số lượng và tên gọi các động ghi trong các sách có chỗ đại đồng tiểu dị. Chẳng hạn Lê Thành Khôi thì căn cứ vào ĐVSKTT mà chép là 6 động, nhưng lại ghi Cổ Sâm thành Cổ Xung (Le Viet Nam Histore etcin lisation, Leseditions deminuít, Paris, 1955, P.263); Trần Trọng Kim chỉ chép 5 động – không có An Lương (Việt Nam), Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang và Nguyễn Cảnh Minh thì ghi 5 động là: Tư Lẫm, Kim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát và La Phù (sđd-92, tập 1, Hà Nội, 1971, trang 75).

Thực ra, sự việc chỉ liên quan đến 4 động là Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù và có chăng thì chỉ việc Mạc Đăng Dung trả đất chứ không hề có việc Mạc Đăng Dung dâng đất của Đại Việt cho nhà Minh. Sự thực bốn động nêu trên đều thuộc trấn Như Tích vốn là đất Trung Hoa ít nhất từ đời Tống. Trấn này nằm cách Khâm Châu (Quảng Đông) 160 dặm về phía Tây và cách Châu Vĩnh An của Đại Việt 20 dặm. Đây là một vùng núi cao, địa thế hiểm trở. Đầu đời Tống các động này đã đặt các chức động trưởng để trông coi và sang đời Minh, niên hiệu Hồng Vũ năm đầu (1368), vua Minh lại đặt chức Tuần Ti ở Như Tích để thống lĩnh các động này một cách chặt chẽ hơn. Như đã trình bày về hai châu Quy, Thuận, các động trưởng dọc biên giới Việt – Trung thường tuỳ theo tình hình thực tế mà thay đổi thái độ thần phục đối với Trung Hoa hoặc Đại Việt.

… Vậy là ngay một số ghi chép trong ĐVSKTT như đã trích dẫn trên cũng đủ cho thấy hoàn toàn không có chuyện Mạc Đăng Dung cắt đất của Đại Việt để dâng cho nhà Minh. Có chăng chỉ là các sử thần Lê-Trịnh vì mục đích chính trị đã xuyên tạc sự thật lịch sử để hạ nhục nhà Mạc mà thôi”.

Điều cuối cùng chính là việc các sử gia phê phán ông hèn nhát cầu hòa, trói mình đầu hàng nhà Minh. Chuyện phê phán này khởi đầu từ nhà Lê Trung Hưng (tử thù nhà Mạc) và sau này càng trở thành cực đoan khi vào thế kỷ 19 và 20 Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ, nên các sử gia thời sau khi viết về những “tội nhân” liên quan đến việc đầu hàng hay cầu hòa như Mạc Đăng Dung đều mạt sát không tiếc tay. Đó cũng là phản ánh tâm thái dân tộc nhược tiểu, bị uất ức và ám ảnh của việc vong quốc nên phản ứng cực đoan với những gì mà họ cho là thể hiện sự hèn kém. Tất cả tâm thái đó chỉ để thỏa mãn cái lòng tự tôn dân tộc đang bị giày xéo trong thời đại đó mà thôi. 

Nhưng chính trị không phải là trò chơi, một nhà lãnh đạo nếu không biết cân nhắc lợi hại của dân tộc mà mù quáng chạy theo thứ hào nhoáng như tự tôn dân tộc hay nóng giận nhất thời thì cả dân tộc sẽ bị hủy diệt. Mạc Đăng Dung chính là một lãnh tụ cực kỳ khôn ngoan và thận trọng, hơn nữa lại luôn đặt lợi ích quốc gia lên trên gia tộc và danh dự bản thân. Những quyết định của ông “có vẻ” như mềm yếu và nhu nhược nhưng thực tế lại chính là quyết định sáng suốt nhất mà ông từng làm. Dân tộc Việt Nam quả thật may mắn có ông làm vua vào thời gian đó.

Vì sao nói như vậy?

Vì người làm đại sự không tính tiểu tiết mà chính là nhắm vào hiệu quả thực tế và lâu dài. Trên thực tế, điều cầu hòa và cắt đất mà ông làm (dù có hay không) đã ngăn không cho nhà Minh đem quân vào Đại Việt. Kể từ sau khi ông mất thì cháu ông, Mạc Phúc Hải vẫn là người có toàn quyền tối cao điều hành đất nước từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra và không có một ông quan nào của nhà Minh trên nước Việt Nam như kiểu Đạt Lỗ Hoa Xích thời Trần. Dân tộc này cần một đất nước độc lập trên thực tế chứ không phải trên giấy tờ.

Từ sau khi ông mất thì cháu ông, Mạc Phúc Hải điều hành đất nước từ địa phận Ninh Bình ngày nay trở ra và không có một ông quan nào của nhà Minh trên nước Việt Nam ta. (Ảnh minh hoa: vietlist.us)

Về sự kiện này, GS. Trần Quốc Vượng cho rằng:

“Hành động “đầu hàng” của nhà Mạc do Minh sử chép là một sự phóng đại để khoe khoang, hành động ấy vua Lê sau này cũng lặp lại gần nguyên xi thì lại không bị sử gia nhà Lê nêu lên để phê phán. Đó (việc làm của vua Mạc) chẳng qua là một hành động “tượng trưng” (quàng dây lụa vào cổ, không phải là tự trói), một sự “nhún mình” (cũng có thể nói là hơi quá đáng) của một nước nhỏ đối với nước lớn trong điều kiện tương quan chính trị ngày xưa (và nên nhớ lúc ấy Mạc Đăng Dung đã thôi ngôi được 10 năm rồi và là một ông già sắp chết (từ Nam quan trở về được mấy tháng thì ông qua đời), ông già này gánh nhục cho con, cho cháu và cho cả nước mà cứ bị mang tiếng mãi! Tất cả ứng xử của Mạc với Minh cũng chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao hằng xuyên của Việt nhỏ Hoa lớn “thần phục giả vờ, độc lập thực sự” (Vassalité fipe, Indépendance réelle). Mà thực sự ở thời Mạc không có bóng một tên xâm lược nào trên đất nước ta, quan bảo hộ, dù hình thức như chức “Đạt lỗ hoa xích” ở Thăng Long triều Trần cũng không. Thế tại sao người này thì khen là khôn khéo, người khác lại chê là hèn hạ?”.

Sử Trung Quốc đôi khi phóng đại thành tích của hoàng đế nước họ để thể hiện uy thế của Thiên triều, họ chỉ được cái cúi lạy của một ông già sắp chết và vài cái hang núi hoang vu vốn đã thuộc về họ mấy trăm năm mà ca tụng thành chiến công hiển hách. Đoàn quân do Tổng Đốc Tôn của nhà Thanh sau khi bị đánh sấp mặt tại Thăng Long mà Thanh sử vẫn ghi vào như một trong “thập đại võ công” của Càn Long.

Nhưng cái tuyệt vời nhất của nhà Mạc và Mạc Đăng Dung đã làm được, hơn tất cả các triều đại xưa nay của Việt Nam (nhưng không ai nói đến) chính là dám hy sinh cả danh dự, sỹ diện cá nhân hay dòng họ mình vì quyền lợi chung của dân tộc cũng như đại cục quốc gia.

Một thực tế lịch sử mà ngay cả các sử gia thời Lê-Trịnh, Nguyễn sau này phải thừa nhận rằng con cháu nhà Mạc từ sau năm 1592 cho đến khi để mất hẳn đất Cao Bằng về tay nhà Lê Trung Hưng, chưa bao giờ có ý đồ mượn sức mạnh quân sự của nhà Minh hay nhà Thanh để chống lại quân Lê-Trịnh-Nguyễn trên bờ cõi đất Việt (dù phải mượn sức mạnh/ảnh hưởng chính trị từ thiên triều phương Bắc trong việc đối phó với sức ép quân đội Lê-Trịnh).

Lời di chúc nổi tiếng của thân vương Mạc Ngọc Liễn có thể xem là bằng chứng lịch sử đáng tin nhất cho chiến lược tồn vong của nhà Mạc: quyền lợi dòng họ – gia tộc là quan trọng nhưng vẫn phải đặt sau địa vị tối cao của quyền lợi quốc gia – dân tộc.

“Tháng 7 năm 1594, Mạc Ngọc Liễn ốm nặng, khi sắp mất ông để thư lại dặn vua Mạc Kính Cung như sau:

“Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Dân ta là người vô tội mà khiến để phải mắc nạn binh đao, ai nỡ lòng nào! Chúng ta nên lánh ra ở nước khác, nuôi dưỡng uy lực, chịu khuất đợi thời, chờ khi nào mệnh trời trở lại mới làm được, chứ không thể lấy lực chọi với lực. Khi hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con bị thương, không có ích gì cho công việc. Nếu thấy quân họ đến đây thì chúng ta nên tránh đi, chớ có đánh nhau với họ, cốt phòng thủ cẩn thận là chính; lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”.

Ông mất ngày 2 tháng 7 âm lịch năm đó. Sau khi ông qua đời, con ông là phò mã Đông Sơn hầu chạy sang Long châu, theo Mạc Kính Cung tiếp tục chống chính quyền Lê-Trịnh. Mạc Kính Cung và các vua Mạc sau tiếp tục làm theo lời dặn của ông, tranh thủ sự ủng hộ của nhà Minh để cát cứ ở đất Cao Bằng nhưng tuyệt nhiên không mượn quân Minh sang đánh nhà Hậu Lê”.

Dấu tích thành nhà Mạc tại Lạng Sơn. (Ảnh: Wiki)

Trăm năm bia đá thì mòn – Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ

Thế kỷ 16 là một thế kỷ đầy biến động của các quốc gia châu Á, nên những nhà lãnh đạo nắm quyền vào thời kỳ này sẽ phải đối đầu với nhiều khó khăn nan giải mang tính thời đại.

Mặc cho những lời khen chê và bôi nhọ, Mạc Đăng Dung đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình ở cương vị là khai quốc hoàng đế nhà Mạc, bảo vệ cho quốc gia toàn vẹn trước nguy cơ xâm lăng với cái giá rẻ nhất – uy tín và danh dự của chính ông – một vị vua và một võ sĩ chân chính. Cần có dũng khí để chiến đấu với kẻ thù, nhưng cần cái Dũng vĩ đại hơn nghìn lần cái Dũng đó để chịu nhục cho bản thân mà bảo toàn cho nước nhà. Đó là cái Dũng của Thánh Nhân vậy.

Những kẻ khác như Hồ Quý Ly trả cái giá đắt hơn nghìn lần, lại có cả những kẻ chủ động rước quân Minh về giúp tiêu diệt đối thủ như Lê Trang Tông lại chẳng có lời chê.

Trong khi nhà Trần lấy ngôi bằng hôn nhân toan tính, nhà tiền Lê nối ngôi từ sự tư thông với hoàng hậu lúc vua mới còn thơ thì Mạc Đăng Dung đường hoàng đánh bại hết tất cả đối thủ mà lên ngôi khai vận triều đại mới. Nếu triều Mạc không được xem là chính thống thì có lẽ các triều đại còn lại cũng nên cảm thấy xấu hổ với danh hiệu chính thống của mình chăng?

Tuy vậy việc bôi nhọ Mạc Đăng Dung và nhà Mạc không phải hoàn toàn thuận lợi, vì nó vấp phải Nguyễn Bỉnh Khiêm, người luôn bảo vệ nhà Mạc. Một nhà trí thức lớn, một người tu hành đắc Đạo có thể nhìn thấu thịnh suy các triều đại hơn 500 năm sau chẳng lẽ mù quáng mà luôn bảo vệ nhà Mạc và luôn coi Mạc Thái Tổ như minh chủ hay sao?

Ông đã chứng tỏ quan điểm của mình suốt cuộc đời, cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu đi thi, không chịu cộng tác với nhà Lê, không nhận bất cứ công việc gì của nhà Lê để cuối cùng chọn làm việc cho nhà Mạc.

Nguyễn Bỉnh Khiêm để chứng tỏ quan điểm của mình suốt cuộc đời, cho đến lúc gần 50 tuổi vẫn nhất định không chịu đi thi, không chịu cộng tác với nhà Lê mà làm việc cho nhà Mạc.

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thực sự vui mừng, tin tưởng ở một xã hội thanh bình và thịnh trị do triều đại mới đem lại, hãy đọc những vầng thơ của ông để xem tâm thái của ông về nhà Mạc như thế nào:

“Mừng thấy thời vần đời mở trị
Thái bình thiên tử, thái bình dân”

Hay:

“Ba đời chúa được phúc tình cờ
Ơn nặng chưa từng báo tóc tơ”.

Thậm chí đến lúc ông 70 tuổi dù được về nghỉ ở quán Trung Tân, ông vẫn bày tỏ thái độ chung thuỷ với các vua Mạc:

“Xem lại tuổi đời ngoài bảy chục
Chỉ vì già yếu há quên vua”.

Một bậc tu hành đắc Đạo, không màng lợi danh đã viết ra những lời như thế, phải chăng cũng đến lúc chúng ta nên xem xét lại quan điểm của mình?

(Hết)

“Âm đức” là gì? Làm thế nào tích được âm đức?

Từ xưa đến nay, trong các tác phẩm văn học hay ngoài cuộc sống đời thường, chúng ta thường nghe nói đến những từ như: “âm phúc”, “âm đức”. Trong văn hóa truyền thống, những từ ngữ này được hiểu chính xác là gì?

Kỳ thực, nhiều người chưa hiểu rõ ý nghĩa của những từ ấy, đặc biệt là từ “âm”. Từ “âm” ở đây không có nghĩa là âm phủ, số âm hay âm dương. Từ “âm” trong “âm đức, âm phúc” mang ý nghĩa là ám, tức là thầm lặng, ngầm, âm thầm, kín đáo, không hiển lộ ra bên ngoài. Điều này có nghĩa rằng, người làm việc thiện phải làm được ở trong thầm lặng, trong kín đáo, trong lặng lẽ, không phô trương.

Chút suy nghĩ về âm đức
Suy nghĩ về “âm đức”

Cổ ngữ có câu: “Người có âm đức, tất sẽ có âm báo”. Ý nghĩa rằng, người nào âm thầm làm việc thiện tích đức thì Thượng Thiên cũng sẽ âm thầm ban phúc báo cho họ. Người âm thầm làm việc tốt sẽ tích được “âm đức” và việc làm nhân đức đó của họ sẽ được Thượng Thiên ghi công lại, gọi là “âm công” và ban phúc cho họ gọi là “âm phúc”.

Văn hóa truyền thống luôn cho rằng, hết thảy danh tiếng, tài vận, phúc lộc của một người ở đời này đều là do đời trước đã tích được đức mà sinh ra. Người nào có được loại “âm đức” này, Thượng Thiên sẽ ban thưởng xứng đáng cho người ấy.

“Âm đức” là tinh hoa của văn hóa truyền thống, là thể hiện tâm tín Phật hướng thiện, kính sợ Thần linh, tin vào “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”.

Từ “Âm đức” xuất hiện đầu tiên trong cuốn “Thượng thư”. Trong đó viết rằng: “Duy thiên âm chất hạ dân”, ý tứ là: Ở trong sâu thẳm, Trời đang bảo hộ che chở cho con người. Đây là tư tưởng mộc mạc, thẳng thắn và chân thành nhất của con người cổ đại đối với Thiên mệnh. Thời cổ đại, các giá trị đạo đức của con người luôn được đề cao và coi trọng, vì thế họ tin rằng, mệnh của một người là do Thượng Thiên an bài và Thượng Thiên sẽ luôn ở trong âm thầm mà che chở, phù hộ cho họ.

Trong cuốn “Âm đức văn”, “âm đức” còn mang ý nghĩa Thiên nhân cảm ứng. Yêu cầu mọi người tự mình tích nhiều âm đức, âm công, hành thiện, làm việc tốt nhưng đừng khoa trương ở khắp mọi nơi, chỉ cần lặng lẽ, âm thầm đi làm là được bởi vì Thượng Thiên là “cảm ứng” được lòng người. Cho dù một người làm việc thiện mà không ai biết thì Văn Xương Đế Quân (Vị Thần chủ quản công danh phúc lộc) cũng sẽ âm thầm phù hộ và ban phúc lộc cho người ấy.

Tục ngữ có câu rằng: “Con người hành thiện thì Trời đất đều biết, ắt có phúc báo”. Hành thiện chính là chỉ âm đức. Con người tích đức càng nhiều thì phúc báo càng lớn. 

Trong cuốn sách khuyến thiện “Văn Xương đế quân âm chất văn” nói rằng: Dẫu chúng ta làm việc tốt hay việc xấu thì đều có báo ứng với bản thân và người nhà mình, chính là “gần thì ứng với thân, xa ứng với con cháu”.

“Kinh Dịch” cũng nói với chúng ta rằng “Nhà tích thiện ắt dư dả, nhà tích bất thiện ắt lắm tai ương”, “Thiện không tích, chẳng đủ thành danh, Ác không tích, chẳng đủ diệt thân.” Điều này cũng minh chứng cho nguyên lý “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”. Làm nhiều việc tốt mà không cầu danh tiếng mới gọi là âm đức.

Trong “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên” nói rằng: “Cổ nhân nói lời thiện, nhìn việc thiện, làm điều thiện. Mỗi ngày đều làm 3 việc thiện này thì trong ba năm Trời ắt giáng phúc. Kẻ ác nói lời ác, nhìn việc ác, làm điều ác. Một ngày đều làm 3 điều ác này, thì trong 3 năm Trời ắt giáng họa” chính là đạo lý này. Thiết nghĩ làm việc tốt ắt sẽ kết giao được nhiều bạn tốt hơn. Kẻ hành ác lại đang gieo mầm oan gia trái chủ. “Người đắc đạo được nhiều người tương trợ, kẻ vô đạo chẳng mấy người giúp đỡ”. Nhiều bạn chính là phúc!

Do vậy, Điều quan trọng nhất khi tu thiện là xuất phát từ sự chân thành, không cầu báo đáp. Đây mới gọi là chân thiện.

Vậy làm việc thiện mà thể hiện ra cho mọi người cùng biết thì có phải là “âm đức” không?

Làm việc thiện dù âm thầm hay thể hiện ra ngoài, muốn biết có tốt hay không cần phải xét xem cái tâm của người ấy, nhưng về cơ bản đều là những hành vi tốt đẹp, đáng được ca ngợi.

Tuy nhiên, cũng có trường hợp lại chưa hẳn đã là làm việc thiện chân chính. Ví như, một số người làm việc thiện nhưng lại mong muốn để người khác biết đến nhiều hơn, để người khác tôn kính mình hơn, coi trọng mình hơn, để xã hội tán dương mình hơn từ đó mà báo đáp mình. Như vậy, chẳng phải việc thiện ấy đã tự nhiên chuyển hóa thành phương tiện để người đó truy cầu cái “danh” và cái “lợi” cho bản thân mình rồi sao?

“Âm đức” là thiêng liêng, cho nên nếu làm việc thiện mà cố ý khoa trương bản thân để được “danh” và “lợi” thì hiệu lực của “âm đức” sẽ tự nhiên mất đi và cũng không tích được “âm công”, cũng liền khởi không được tác dụng chân chính của hành thiện.

Như vậy, không màng “danh lợi”, lặng lẽ làm việc thiện thì mới thực sự là hành thiện tích đức chân chính.

Vì sao nhà Trần có thể đánh bại cả triệu quân Nguyên Mông?

Trong suốt lịch sử tồn tại của mình, dân tộc ta ghi dấu vào lịch sử thế giới với những chiến công nổi tiếng chống lại các kẻ thù mạnh nhất thế giới. Trong đó, ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông là đỉnh cao của nghệ thuật chiến tranh Đại Việt, tỏa sáng cho đến tận ngày nay. Một quốc gia bé như cái nắm tay, dân số chưa đến 10 triệu mà đập tan ba cuộc xâm lược của đế quốc mạnh nhất thế giới mọi thời đại. Điều này làm dấy lên rất nhiều hứng thú trong giới sử học, với rất nhiều công trình nghiên cứu về lý do làm nên chiến thắng này. Hôm nay, người viết mạo muội chia sẻ thêm một góc nhìn khác về chiến thắng oanh liệt kia, ngõ hầu làm phong phú thêm nhận thức của độc giả.

Vua quan triều đình đều là tinh tú chuyển sinh hộ Pháp

Đối với sự bảo hộ dành cho Chính Pháp ở nước Nam, Thiên thượng đã an bài vô cùng tỉ mỉ cẩn thận đến từng chân tơ kẽ tóc, vì đạo quân Nguyên Mông do lãnh sứ mệnh thanh lý trần gian bằng binh lửa nên sức mạnh của họ rất là ghê gớm.

Để có thể đánh bại và chế ngự họ ngay trên mảnh đất bé tẹo này thì Thần Phật đã làm rất nhiều việc. Có người nghĩ, Thần Phật hẳn phải sắp xếp những phép lạ nào đó để dân Nam đánh bại quân giặc, chứ lẽ nào lại sắp xếp những việc bình thường?

Bởi vì cõi trần này vốn là cõi mê, để người ta trong mê mà tu trở về, để đắc Chính Quả, nên sẽ không có chuyện triển hiện phép màu một cách rộng rãi và vô cớ. Mọi sắp xếp phải đảm bảo mọi sự diễn ra đúng ý muốn của Thượng đế, và nhìn vẻ ngoài phải hoàn toàn bình thường và phù hợp với cái lý của thế gian.

Trong số các việc đó, quan trọng nhất là phần sắp xếp cho các vị tinh tú kiệt xuất chuyển sinh vào triều đình nhà Trần để lãnh đạo quân dân kháng chiến. Không phải xuất hiện một vị Thần dùng phép thắng giặc, mà là vị Thần đó phải đầu thai làm người phàm, dùng năng lực của mình để chiến đấu và chiến thắng thì mới hợp lẽ như nói ở trên.

Thế nên, trong chiến thắng trước quân Nguyên Mông, phần thể hiện rõ nhất chính là tài năng kiệt xuất của vua tôi nhà Trần.

Thanh Thiên đồng tử: Giết giặc Thát, bắt tướng Nguyên, sinh vi tướng tử vi Thần

Đầu tiên có thể kể đến vị tinh tú sáng chói nhất, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228–1300).

Ngài chính là ví dụ tiêu biểu nhất cho câu “Sinh vi tướng, tử vi Thần” trong sử Việt.

Tương truyền, thời đầu nhà Trần có một dải khí trắng bốc lên đến trời. Thánh Tản Viên thấy thế biết nước Nam sẽ có ngoại xâm, bèn tâu Thượng đế. Sau đó, Thượng đế phái Thanh Thiên đồng tử xuống trần quét sạch dải khí trắng đó bằng cách sinh hạ vào nhà thân vương làm danh tướng. Khi Trần Hưng Đạo ra đời, trong nhà tràn ngập hương thơm và ánh sáng. Một vị đạo sĩ do coi thiên văn thấy có một vì tướng tinh giáng hạ, liền đến xin xem mặt Trần Quốc Tuấn.

Khi nhìn thấy, vị đạo sĩ vội lui xuống, vái lạy nói: “Người này tốt lắm, về sau cứu nước giúp đời làm sáng sủa cho non sông đó”. Vương đầy một tuổi đã biết nói, năm, sáu tuổi đã biết làm thơ ngũ ngôn, bày chơi đồ bát trận, thông minh xuất chúng.

Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (1228–1300)

Bài thơ do Vương làm lúc bảy tuổi thể hiện nguồn gốc siêu nhiên và cũng là lời tiên tri cho sự nghiệp lẫy lừng vạn thế của Vương sau này:

“Tứ thất uẩn hung trung

Bát bát thám Dịch tượng

Lục Hoa bố trận đồ

Sát Thát cầm Nguyên tướng”.

Tạm dịch:

“Bốn bảy chất chứa trong lòng

Tám tám gieo quẻ biết thời thế

Bày bố trận Lục Hoa

Giết giặc Thát bắt tướng Nguyên”.

Người viết tạm phân tích bài thơ như sau:

“Tứ thất” nghĩa là bốn lần bảy là 28, chỉ 28 vì tinh tú trong thiên văn cổ đại. Cũng là cách chia các đạo quân ra theo các thế trận dựa trên các vì tinh tú. Câu này ý nói bản lĩnh quân sự nắm rõ binh pháp của Trần Hưng Đạo.

“Bát bát” là tám lần tám là 64, tượng trưng 64 quẻ Dịch. Ý nói người làm tướng ngoài binh pháp còn phải biết lòng người và ý Trời, đoán trước lành dữ cát hung, thuận theo Thiên Đạo mà hành sự. Quẻ Dịch chính là học thuật mà tướng lãnh cần phải biết và tinh thâm để có thể cầm quân một cách hoàn hảo.

“Lục Hoa trận” chính là Bát Quái trận đồ danh chấn thiên hạ của Gia Cát Lượng, sau này được danh tướng Lý Tĩnh thời nhà Đường tinh chỉnh lại và đổi tên thành Lục Hoa trận đồ, xếp vào hàng các loại trận pháp danh tiếng nhất thời cổ đại.

“Sát Thát cầm Nguyên tướng”, đây là câu thơ lạ lùng nhất, vì thời điểm mà Hưng Đạo Vương còn nhỏ thì nhà Nguyên chưa thành lập và cũng chưa hề xâm lấn đến Việt Nam. Việc một đứa bé bảy tuổi làm thơ nói rằng sẽ giết giặc Thát (Thát Đát – từ chữ Tartar ý chỉ chung các dân tộc du mục hay xâm lấn Trung Quốc) và bắt tướng Nguyên quả là huyền hoặc lắm.

Người xưa có câu: Bậc làm tướng trên thông thiên văn dưới tường địa lý. Ví dụ như Gia Cát Lượng chính là vị đại tướng như thế.

Có thể thấy Trần Hưng Đạo chính là do Trời phái xuống để làm một bậc danh tướng giống như Gia Cát Lượng khi xưa với đầy đủ tài cầm quân từ thiên văn đến địa lý. Việc quân Nguyên Mông bại vong dưới tay ông chính là đã được Thiên thượng định trước. Và ông hoàn toàn biết trước điều đó vì ông là người tinh thông Dịch Lý thiên văn.

Lời bàn:

Ngài là nhân vật vĩ đại cổ kim, người viết không dám lạm bình. Chỉ xin trích “Việt điện u linh” tập bình về ngài như sau:

“Nước Mông Cổ quật khởi ở phương Bắc, nuốt nước Linh Hạ, uy hiếp Cường Kim, đánh úp nhà Cự Tống, mang cung tên đến đâu thì các nước ngoài núi biển đều trông gió mà tan vỡ, đem quân sang Nam ào ào như núi lở sông băng, gió rung mây cuốn; Vương chỉ một nhóm tàn quân dám ra chống cự, khác nào như núi Thái Sơn đè trứng, thế mà một hồi trống sông Bạch Đằng, quân Mông Cổ phơi thây nghìn dặm, há chẳng phải là việc hiếm có ở trời đất sao? Không những có công lớn với nhà Trần mà cũng có công lớn với thiên hạ đời sau nữa, nếu không có Hưng Đạo Đại Vương thì nước Nam Giao đã phải để tóc đuôi sam rồi vậy”.

Chiêu Văn Đồng Tử: Vâng mệnh giáng trần phù trì xã tắc, mở mang văn hóa

Trần Nhật Duật (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330) tước hiệu Chiêu Văn đại vương (昭文大王). Ông là con trai thứ sáu của Trần Thái Tông và là một danh tướng nhà Trần. Ông là một trong những vị tướng kiệt xuất nhất cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai và thứ ba, đặc biệt là chiến thắng Hàm Tử, công lao hiển hách không thua kém Trần Quốc Tuấn hay Trần Quang Khải.

Là một vị đại tướng đa tài hiếm thấy trong sử Việt, ông thông thạo nhiều ngoại ngữ, võ công binh pháp cao cường mà ca nhạc thi họa không gì không tinh thông. Vì trí huệ to lớn như thế, nên tương truyền rằng ông chính là do người trời giáng sinh chứ chẳng phải người phàm. Sách “Đại Việt Sử ký toàn thư” chép như sau:

“Đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong tâu với vua: “Thượng đế đã y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ”. Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ “Chiêu Văn đồng tử” (昭文童子)  nét chữ rất rõ, vì thế đặt hiệu là Chiêu Văn (tức là Nhật Duật). Lớn lên, nét chữ mới mất đi”.

Ta cũng có thể thấy rõ trong tước hiệu của ông về sứ mệnh cũng như tài năng vốn đã được Thiên thượng định trước.

Chữ Chiêu 昭 gồm có bộ Nhật 日, chữ Đao 刀 và chữ Khẩu 口 ghép lại. Nhật mang ý nghĩa sáng sủa thông minh, còn có ý là trí huệ lớn, thuộc về Trời. Vậy chữ Chiêu này thể hiện cho việc ông mang trí tuệ lớn do trời phú cả về võ (chữ Đao) và ngoại ngữ (chữ Khẩu – cái miệng), vì rõ ràng lợi thế ngoại ngữ của ông là điều chưa từng thấy ở triều Trần. Ngoài ra, ông sẽ lại nổi danh về văn hóa văn chương do hiệu Chiêu Văn, nghĩa là làm sáng tỏ văn hóa, tài năng của ông ngoài võ công binh pháp ra thì văn chương âm nhạc cũng là đệ nhất ở nước Nam thời đó vậy.

Trong sử còn ghi ông nổi tiếng là người hiểu nhiều biết rộng, rất tôn sùng Đạo giáo, thâm sâu kinh điển Đạo gia. Nếu chẳng phải căn duyên từ xưa khi còn là Chiêu Văn đồng tử trên trời, thì làm sao ông lại nghiên cứu Đạo gia kinh điển làm gì khi Phật giáo đang là quốc giáo vào thời Trần?

Có thể coi ông là một cao nhân đắc Đạo cũng chính vì ông tôn sùng Đạo giáo, thâm sâu kinh điển, và vì cách hành xử cũng như cách sống của ông có thể coi là mẫu mực cho các vị đại thần nắm trọng quyền muôn đời sau.

Sách “Đại Việt Sử ký toàn thư” chép về ông:

“So với Quách Tử Nghi tột cùng xa xỉ mà không ai chê, ông (tức Nhật Duật) cũng gần được như thế”.

Sách còn chép về câu chuyện xử thế tuyệt vời của ông như sau:

“Trần Nhật Duật vốn là người nhã nhặn, độ lượng, khoan dung, mừng giận không lộ ra sắc mặt. Trong nhà không chứa roi vọt để đánh gia nô, nếu có đánh thì trước khi đánh bao giờ ông cũng vạch tội rõ ràng. Một lần có kẻ kiện gia tỳ của ông với Quốc phụ thượng tể Trần Quốc Chẩn. Quốc Chẩn sai người đến bắt. Người gia tỳ chạy vào trong phủ. Người đi bắt đuổi đến giữa nhà, bắt trói ầm ỹ. Phu nhân khóc, nói: “Ông là tể tướng mà Bình Chương cũng là tể tướng, chỉ vì ân chúa nhân từ nhu nhược nên người ta mới coi khinh đến nước này”.

Ông vẫn tự nhiên, chẳng nói gì, sai người bảo gia tỳ rằng: “Ngươi cứ ra, đâu đâu cũng đều có phép nước”. Trong một lần khác, một gia nô của ông đang giữ thuyền thì bị gia đồng của Quốc Chẩn đánh. Khi có người thuật lại việc này với ông, ông chỉ hỏi: “Có chết không?”, và sau khi biết là người gia nô chỉ bị thương, ông trả lời: “Không chết thì thôi, mách làm gì!”.

Lời bàn:

Ông là bậc thân vương tôn quý, làm quan qua 4 đời vua, 3 lần coi giữ trấn lớn, thọ đến 75 tuổi. Dù đã có nhiều công lao, lại là tôn thất hoàng gia nhưng vẫn làm việc rất ngay thẳng. Cuộc đời ông gắn liền với giai đoạn vinh quang nhất của nhà Trần.

Trong lịch sử, người có tài lớn thường sẽ gặp tai vạ lớn, nhưng Chiêu Văn Đại Vương là một ngoại lệ hiếm có khi có thể đắc được cả vinh hoa phú quý lẫn trường thọ. Danh tiếng ông còn lưu truyền đến ngày nay không có một vết nhơ.

Đọc lại cách xử thế của ông, ta có thể thấy hình dáng của một cao nhân đắc Đạo, coi danh lợi như mây trôi, khoan dung tự tại mà đầy trí huệ. Nếu không phải một thân Đạo tâm trong sáng do tinh tu Đạo gia, nghiên cứu kinh điển thì có thể đạt được như vậy hay không?

Nên nói rằng dù làm quan to đến đâu, phú quý cao tột thế nào, thì chỉ khi đạt đến cái tâm thanh tĩnh, thì mới là sự nghiệp một đời viên mãn.

Trần Nhân Tông: Kim Tiên Đồng Tử chuyển sinh tu thành Phật

Vốn là nơi Chính Pháp được Thiên thượng lựa chọn bảo tồn, cả quốc gia đều tín phụng Phật pháp, nước Nam ta thời đó cũng chính là thánh địa cho các cao tăng Phật gia đản sinh tu hành để thành Phật. Vì thế nên lịch sử nhà Trần mới có sự khai tông của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, một pháp môn tu thiền do một vị vua sáng lập ra, ông chính là Trần Nhân Tông.

Tranh vẽ vua Trần Nhân Tông trong dáng dấp một nhà tu hành. Ảnh: Wikipedia.

Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm (陳昑), sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ niên hiệu Thiệu Long năm thứ nhất (tức 7 tháng 12 năm 1258). Ông là con trai đầu lòng của Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị Thiều.

Theo “Đại Việt Sử ký toàn thư”, Trần Khâm ngay từ khi sinh ra đã được tinh anh Thánh nhân, thuần túy đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, nên vua cha và ông nội – Thái thượng hoàng Trần Thái Tông đã gọi ông là Kim Tiên đồng tử (金仙童子). Các sách “Tam Tổ thực lục” và “Thánh đăng ngữ lục” (đều ra đời khoảng thế kỷ XIV) chép biệt hiệu này là Kim Phật (金佛).

Cả 2 sách này và “Đại Việt Sử ký toàn thư” đều kể rằng bên vai phải Trần Khâm có nốt ruồi đen lớn như hạt đậu; người xem tướng đoán rằng hoàng tử về sau sẽ làm được việc lớn – có khả năng gánh vác nước nhà. Quả thật, sau này dưới sự lãnh đạo của ông, nhà Trần đã vẻ vang chiến thắng quân Mông Cổ 2 lần ngoạn mục.

Các thư tịch cổ như “Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ” (bức tranh vẽ cảnh Trần Nhân Tông xuống núi sau khi đắc Đạo) cho thấy Trần Nhân Tông đã đạt được trình độ cao về các lĩnh vực như quân sự, âm nhạc, lịch số học và thiên văn học. Ông cũng học kỹ về tam giáo Phật – Lão – Nho và am hiểu tường tận giáo pháp nhà Phật. Sách “Thánh đăng ngữ lục” cũng viết: “Bản chất Ngài rất thông minh và hiếu học, có nhiều tài năng, xem khắp hết các sách, thông suốt cả nội điển lẫn ngoại điển”.

Dù thân làm vua nhưng Trần Nhân Tông vẫn sống thanh tịnh như một nhà sư. Khi rảnh việc nước, ông thường mời các thiền giả đến hỏi về yếu chỉ Thiền tông. Đặc biệt, theo “Thánh đăng ngữ lục”, ông học đạo với thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ “đạt sâu tới chỗ thiền tủy và thờ Thượng Sĩ làm thầy”. Ngoài ra, ông từng ăn chay khổ hạnh đến mức thân hình gầy guộc, khiến Thượng hoàng phải ngăn lại. “Thánh Tông khóc, bảo: Ta nay già rồi, trông cậy một mình con, nếu con làm như thế thì sự nghiệp của tổ tông sẽ ra sao? Ngài [Nhân Tông] nghe vua cha nói vậy cũng rơi nước mắt”.

Sau khi đã hoàn thành các nghĩa vụ đối với đất nước và triều đại thì con đường tu hành vẫn là lựa chọn cuối cùng của Trần Nhân Tông. Tháng 10 (âm lịch) năm 1299, Nhân Tông rời đến Yên Tử (Quảng Ninh), lấy pháp danh Hương Vân đại đầu đà (香雲大頭陀) và tu hành theo thập nhị đầu đà (mười hai điều khổ hạnh). Ông còn có đạo hiệu là Trúc Lâm đại đầu đà (竹林大頭陀), hay Trúc Lâm đại sĩ (竹林大士) và Giác Hoàng Điều Ngự (覺皇調御).

Tại núi Yên Tử sau nhiều năm tu hành, ngài đã đắc Đạo và khai tông dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Sau khi đắc Đạo, ngài đã nhiều lần vân du giáo hóa chúng sinh, sách xưa còn ghi lại:

“Có lúc ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía nam đến tận Chiêm Thành, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Chiêm Thành biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước…”

Cũng chính trong lần này, Điều Ngự đã hứa gả con là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân; để đáp lễ, Chế Mân xin nhượng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt. Hôn lễ giữa Huyền Trân với vua Chiêm được cử hành vào năm 1306. Vua Anh Tông sáp nhập hai châu Ô, Lý vào Đại Việt và đổi tên châu Ô thành châu Thuận, châu Lý thành châu Hóa.

Cuộc đời của ngài là một truyền kỳ, cho đến lúc mất vẫn như thế. Đến nay vẫn còn lưu truyền câu chuyện về lúc ngài viên tịch như sau:

“Ngày mùng một tháng mười một, nửa đêm sao trời sáng tỏ, Điều Ngự hỏi: Hiện giờ là giờ gì? Bảo Sát thưa: Giờ Tý.

Điều Ngự đưa tay mở cánh cửa sổ nhìn ra bảo: Chính là giờ ta đi! Bảo Sát hỏi: Tôn Đức đi đâu? Điều Ngự đáp:

Tất cả pháp chẳng sanh,

Tất cả pháp chẳng diệt,

Nếu hay hiểu như thế,

Chư Phật thường hiện tiền.

Nào có đến đi gì?

Bảo Sát thưa:

– Chỉ như khi chẳng sanh chẳng diệt thì thế nào?

Điều Ngự liền vả ngay miệng Bảo Sát, bảo:

– Chớ nói mớ!

Nói xong, Ngài nằm theo thế sư tử lặng lẽ mà tịch. Qua đêm thứ hai, Bảo Sát vâng theo lời di chúc, làm lễ hỏa táng ngay nơi am Ngài ở, có mùi hương lạ xông lên thoảng ra xa, nhạc trời trên không, mây ngũ sắc che trên giàn hỏa.

Ngày thứ tư Tôn giả Phổ Tuệ (Pháp Loa) từ núi Yên Tử vội vã đến, dùng nước thơm rưới lên giàn hỏa làm lễ. Xong, Pháp Loa thu lấy ngọc cốt, được xá lợi năm màu hơn năm trăm hạt lớn, còn hạt nhỏ cỡ hột lúa hột cải thì nhiều vô kể. Vua Anh Tông, Quốc phụ Thượng Tể cùng đình thần đem thuyền rồng đến lễ bái dưới chân núi, tiếng khóc vang trời, sau đó đón ngọc cốt và xá lợi xuống thuyền rồng đưa về kinh. Từ triều đình cho đến thôn quê đều rất mực thương tiếc”.

(Trích “Thánh đăng ngữ lục”)

Lời bình:

Xưa vua Thuấn ba lần từ chối ngai báu, cai trị bằng nhân đức, không dùng đến binh đao mà bốn phương quy phục, dựng nên cơ nghiệp thịnh trị muôn đời mà hậu thế vẫn còn mãi ngưỡng vọng. Mấy nghìn năm đã qua, mấy ai còn biết đến thánh nhân trị đời là thế nào? Mà nay một cõi nước Nam xa xôi nhỏ bé, lại có bậc Thánh nhiều lần muốn bỏ cả ngai vàng mà đi tu, dùng một nhúm quân nhỏ bé mà 2 lần đập tan quân xâm lược Nguyên Mông vốn đang làm rung chuyển thế giới.

Bằng sự tu tập bản thân mà khiến cả triều đình và nhân dân sùng thượng Chính Pháp, làm lành lánh dữ. Chỉ bằng chân trần vân du hóa độ chúng sinh mà hóa giải binh đao 2 nước, thêm vào lãnh thổ 2 châu. Thế mới hay để trị quốc làm nên sự nghiệp vĩ đại nghìn năm thì người lãnh đạo đều không phải vì bản thân mà cầu danh cầu lợi. Vì sao mà Phật gia giảng “Không”, Đạo gia giảng “Vô”, bởi vì tinh thần vô dục vô cầu mới có thể đạt đến trí huệ to lớn nhất và thành quả tốt đẹp nhất. Cũng chỉ có người tu mới có thể làm được mà thôi, chỉ có tu hành thì làm gì cũng đem lại lợi ích lớn nhất cho chúng sinh.

(Theo Đại Kỷ Nguyên)

Cung an Thân và cách luận giải

Có nhiều thuyết khác nhau về cung an Thân, nhưng nhìn chung đều cho rằng cung an Thân chủ yếu dùng để xem xét phương pháp và thái độ xử thế của đương số, cũng dùng để xem hậu vận khoảng từ sau 30 tuổi trở đi.

Cung an Thân đại biểu cho hậu vận ở trung vãn niên, thông qua nỗ lực của bản thân mà khả dĩ cải tạo mệnh vận, là cung phụ trợ cung Mệnh. Cung an Thân có liên quan đến của cải, quyết định giàu sang nghèo hèn của đương số ở hậu vận (nhưng mức độ sang quý và thành tựu thì vẫn phải xem thêm cung Mệnh). Cung Mệnh nên có các sao phúc thọ tọa thủ, cung an Thân nên có các sao sang quý tọa thủ. Phương pháp phân tích cung an Thân hầu hết cũng giống như xem cung Mệnh. Trong thực tế luận đoán, tác dụng của cung an Thân tại 2 cung tài bạch và quan lộc khá rõ ràng, còn tại các cung khác tương đối mờ nhạt. Nếu cung Mệnh không có chủ tinh thì cung an Thân trở nên quan trọng hơn.

Cung an Thân là căn cứ theo giờ sinh để định vị, trong Tử Vi Đẩu Số nó chỉ nhập một trong sáu cung sau: cung Mệnh, cung Phu Thê, cung Tài Bạch, cung Thiên Di, cung Quan Lộc, cung Phúc Đức. Cách định vị cụ thể là:

Người sinh vào giờ Tý, Ngọ, cung an Thân tại cung Mệnh. Người sinh vào giờ Mão, Dậu: cung an Thân tại cung Thiên Di. Người sinh vào giờ Dần, Thân: cung an Thân tại cung Quan Lộc. Người sinh vào giờ Thìn, Tuất: cung an Thân tại cung Tài Bạch. Người sinh vào giờ Tỵ, Hợi: cung an Thân tại cung Phu Thê. Người sinh vào giờ Sửu, Mùi: cung an Thân tại cung Phúc Đức.

Phàm nữ mệnh, cung an Thân không nên nhiều đào hoa tinh.

Nếu Thất Sát nhập cung an Thân lại có thêm sát tinh, chủ người này đoản thọ, nếu sống lâu thì bần tiện.

Nếu Dương, Đà giáp cung an Thân, chủ người này dễ chiêu oán hận, nếu cung an Thân lại có Hóa Kỵ, chủ người này tai nạn bệnh tật phá bại.

Nếu Không, Kiếp giáp cung an Thân, chủ người này cả đời lận đận, hoặc thân thể có khiếm khuyết.

Trong Tử Vi Đẩu Số cung an Thân có 3 tác dụng

① Tác dụng sửa chữa: Tính cách của đương số khi tuổi tác dần tăng lên thì cũng dần dần thay đổi theo đặc tính của các sao trong cung an Thân. Ví dụ như, một người Mệnh vô chính diệu, nhưng cung an Thân có chủ tinh, thì có thể vào khoảng 20 tuổi trở đi (không cần thiết phải 30 tuổi về sau), các sao trong cung an Thân sẽ dần dần phát huy tác dụng. Khi luận mệnh thì cung Mệnh là chủ, nhưng tùy theo thời gian, tuổi tác tăng lên, cung an Thân đóng vai trò ngày càng lớn hơn. Nói chung cung an Thân phát sinh tác dụng kể từ trung niên khoảng sau 30 tuổi trở đi, nhất là từ 40 tuổi. Ví dụ như, một cá nhân cung Mệnh nhược, cung an Thân cường, thì tuổi trẻ khả năng tương đối cực khổ hoặc bất thuận, nhưng trung niên trở đi từ từ có được hoàn cảnh tốt đẹp. Nếu ngược lại cung Mệnh cường cung an Thân nhược thì thường là trước sướng sau khổ, trước cát sau hung.

② Tác dụng tăng cường: cung an Thân nhập cung nào thì tác dụng cát hung tăng cường ở cung đó, và thường trọng điểm chú tâm của người này cả đời chính là cung này. Ví dụ như đương số cung an Thân tại Phu Thê, thì người này cả đời rất chú trọng tình cảm, quan tâm đến hạnh phúc gia đình mỹ mãn, dễ dàng bị tình cảm khốn nhiễu, đặc biệt là tại trung lão niên càng thêm rõ ràng. Nếu cung an Thân tại Thiên Di, người này cả đời chú ý truy cầu quan hệ giao tế viên mãn, hầu được người khác nể trọng, cho dù các phương diện khác không được như ý thì ảnh hưởng cũng sẽ không lớn.

③ Tác dụng so sánh: Thái độ của một người đối với một sự việc nào đó trước sau không giống nhau, cung Mệnh thường hay đại biểu nửa phần trước, còn cung an Thân đại biểu nửa phần sau. Ví dụ như, cung Mệnh đương số có Vũ, Tham, Địa Không, cung an Thân có Tử, Sát thì người này khi mới bắt đầu làm một việc nào đó thì hay trù trừ do dự; nhưng bỗng đến một ngày đột nhiên hành động mau lẹ quyết đoán, lại còn có thể duy trì lâu dài một cách kỷ luật. Trong trường hợp ngược lại thì cách luận đoán đảo ngược, là hiện tượng đầu voi đuôi chuột.

Tính chất của cung an Thân khi nằm tại các cung khác nhau

Cung an Thân không phải là cung độc lập mà phải đồng cung với 1 trong 6 cung (cung Mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, quan lộc, cung Phúc Đức). Khi tọa tại mỗi cung thì lại có các ý nghĩa khác nhau:

① Đồng cung Mệnh (người sinh vào giờ Tý, Ngọ): Người này tính cách cố chấp, không thông tình đạt lý, ngoan cường. Hành vận rõ ràng, là người không dễ bị hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng. Người này thường có tâm thiện, cả đời lên xuống trắc trở rất nhiều.

② Đồng cung Phu Thê (người sinh vào giờ Tỵ, Hợi): Người này rất mẫn cảm đối với tình cảm, cả đời đặc biệt chú trọng vấn đề tình cảm. Chú trọng bầu không khí sinh hoạt gia đình, có tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, dễ bị phối ngẫu ảnh hưởng. Nếu nam mệnh mà trong cung có cát diệu thì khi lấy vợ sẽ đắc được phú quý. Người này về mặt công tác dễ gặp tiểu nhân, dễ phạm đào hoa.

③ Đồng cung Tài Bạch (người sinh vào giờ Thìn, Tuất): Người này cả đời khá vất vả, rất chú trọng tiền tài, trọng tài bất trọng danh. Hành sự thường lấy mục tiêu là để kiếm tiền, hành vi dễ dàng bị nhân tố kinh tế chi phối. Người này về mặt công tác lên xuống rất lớn, có thể gặp quý nhân tương trợ, nhưng khi về già nhiều bệnh tật.

④ Đồng cung Thiên Di (người sinh vào giờ Mão, Dậu): Nếu cung an Thân tại cung Thiên Di, người này cả đời hay di chuyển, hoặc thường xuyên thay đổi chức nghiệp, hoặc thay đổi nơi cư trú. Đương số dễ bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh thay đổi.

⑤ Đông cung Quan Lộc (người sinh vào giờ Dần, Thân): Rất xem trọng danh tiếng và thành tựu trong sự nghiệp, thích hoạt động chính trị. Xem trọng danh vị, chú trọng cảm thụ trong công tác. Nhưng cũng do quá chú trọng công danh sự nghiệp mà dễ làm rạn nứt cuộc sống gia đình.

⑥ Đồng cung Phúc Đức (người sinh vào giờ Sửu, Mùi): Người này cả đời thích hưởng thụ, thích đi chơi, khá chú trọng chất lượng cuộc sống, nhưng thiếu chí tiến thủ. Tin vào nhân quả. Thích duy trì nếp sống tổ tiên, duy trì hiện trạng chứ không thích thay đổi.

Cung Phu Thê: Ý nghĩa và cách luận giải

Căn cứ theo đặc tính và trạng thái các tinh diệu trong cung Phu Thê, lại phối hợp tam phương tứ chính ảnh hưởng tương hỗ thì có thể suy đoán các tình trạng sau về phối ngẫu của đương số: tướng mạo, thể hình, cá tính, nghề nghiệp, vợ chồng có hình khắc không; khuynh hướng tình cảm của người này (tức là phương thức kết giao bạn khác giới); thái độ và phương pháp xử lý tình cảm của người này; người này hôn nhân sinh hoạt phải chăng mỹ mãn, xác suất ly hôn; người này thích loại hình bạn khác giới như thế nào; tình cảm vợ chồng đậm nhạt ra sao; phối ngẫu trọng về tinh thần hay là vật chất, vân vân….

Nếu như nam nữ cùng xem lá số, lại phối hợp cung Huynh Đệ, cung Mệnh, cung Quan Lộc, cung Tài Bạch, cung Phúc Đức hai bên để suy đoán quan hệ giữa vợ chồng thì càng thêm chuẩn xác. Nếu như phối hợp cung an Thân suy đoán thêm nữa thì còn biết được khả năng tình dục của đương số.

Nếu cung Phu Thê vô chủ tinh, lại lạc không vong (tức trong cung có không vong, Tiệt Không), chủ người này hôn nhân muộn. Nếu không lạc không vong, đã thành hôn rồi, thì chủ người này phu thê gần nhau thì ít xa nhau thì nhiều. Có 3 loại nguyên nhân: Gia đình kinh tế có vấn đề, cho nên phải xuất ngoại công tác kiếm tiền, trợ giúp gia đình; hoặc bởi vì nơi công tác yêu cầu phải bôn ba Nam Bắc dẫn đến gần nhau ít xa nhau nhiều; hoặc nhân tố ngoại lai can dự vào, làm hình thành quan hệ hôn nhân không chính thường.

Nếu cung Phu Thê lạc tại tứ mã chi địa (Dần, Thân, Tỵ, Hợi), mà trong cung lại có sát tinh hoặc sát tinh trùng trùng, người này khả năng phải hai lần hôn nhân.

Nếu cung Phu Thê không có chủ tinh, mà cung Nô Bộc có Hóa Kỵ, thì người này hôn nhân khó thành. Đó là bởi vì cung Nô Bộc có Hóa Kỵ đối cung là cung Huynh Đệ, biểu thị người này trong các mối quan hệ khi nói đến chuyện cưới xin luôn luôn bất thuận, lúc đó có Hóa Kỵ lai trùng, không có cách nào sinh trợ cung Phu Thê, thêm nữa là cung phu thê không chủ tinh, càng không có trợ lực thúc đẩy nhân duyên.

Nếu cung Phu Thê tự Hóa Kỵ, cho thấy người này có nhà ở/phòng ở khá nhỏ.

Nếu nữ mệnh cung Phu Thê có tứ sát, Không, Kiếp, Thiên Hình, Thiên Diêu, Xương, Khúc, Hàm Trì, Hóa Kỵ trong đó có từ 4 sao tọa thủ trở lên thì người này có khuynh hướng dâm loạn.

Cung Phu Thê và cung Quan Lộc đối xung, chúng có quan hệ như sau:

Cung Phu Thê biểu thị đặc điểm của người phối ngẫu, và quan hệ giữa bản thân và phối ngẫu, cung Quan Lộc biểu thị sự nghiệp của bản thân và biểu thị cách nhìn của người khác đối với phối ngẫu của mình. Phu thê tình cảm không tốt, sẽ ảnh hưởng đến cung Quan Lộc, khiến sự nghiệp của bản thân suy kém, ít nhất cũng hủy mất một nửa. Nếu nữ mệnh cung Phu Thê có chủ tinh Hóa Quyền, thì có trợ giúp đối với sự nghiệp của chồng.

Cung Mệnh là gì, ý nghĩa và luận giải tổng quát

Trong Tử Vi Đẩu Số, cung Mệnh cho biết những điểm mấu chốt về dung mạo, tính cách, tài năng, công danh thành bại một đời của đương số. Nó còn cho biết một số thông tin cơ bản về quan hệ với phụ mẫu, con cái, phu thê, bằng hữu. Nó là đầu mối then chốt của cả 11 cung còn lại. Cũng như vậy, các tinh diệu trong cung Mệnh của cung đại hạn, cung lưu niên cát hung ra sao sẽ quyết định mấu chốt cát hung của đại hạn đó hoặc lưu niên đó.

Cung Mệnh là cung Quan Lộc của cung Tài Bạch, do đó, cung Mệnh là năng lực quản lý tiền tài. Cung can của cung Mệnh (chú ý: không phải là can của năm sinh) dẫn phát tài tinh Hóa Kỵ thì năm, tháng, ngày đó người này tiền tài chịu tổn thất.

Nếu Vũ Khúc, Văn Khúc miếu vượng, lại có Tả Hữu lai giáp cung Mệnh, chủ người này có tài năng rất lớn (Trung Châu Phái Vương Đình Chi cho rằng chỉ có cung Mệnh ở cung Sửu, Thìn thì mới ứng cách này, và cung Sửu thì tốt hơn).

Phàm trong tứ sát tinh có 1 sát trở lên nhập Thân Mệnh thì người này khó tránh khỏi bị phá tướng. Phá tướng tức là tướng mạo có tỳ vết, như sẹo, chàm, bớt, cong, lệch, vẹo, vv…, nhất là trên khuôn mặt.

Nếu nữ mệnh mà trong cung Mệnh có tứ sát, Không, Kiếp, Thiên Hình, Thiên Diêu, Xương, Khúc, Hàm Trì, Hóa Kỵ… thì thường không tốt, nếu trong số đó có từ 4 tinh diệu đồng thời tọa thủ trở lên chủ người này có khuynh hướng dâm loạn.

Nếu cung Mệnh có cung can dẫn phát chủ tinh Hóa Lộc cung Thiên Di, chủ người này muốn xuất ngoại hoặc có thể xuất ngoại.

Nếu cung Mệnh lạc tại tứ mã chi địa (Dần, Thân, Tỵ, Hợi), chủ người này vất vả, cuộc đời sự nghiệp thường có thăng trầm biến hóa lớn, thường xa nhà vất vả bôn ba. Nếu cung Mệnh lại có tinh diệu lạc hãm Hóa Kỵ, chủ người này sẽ bôn tẩu xa nhà. Trong đó, nếu tại Dần, Thân, Tỵ, Hợi có 2 chủ tinh, người này thường hay công tác đa nhiệm hoặc làm 2 nghề trở lên. Nếu như đại hạn hoặc lưu niên rơi vào 4 cung vị này mà lại có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Đồng, Thái Dương, Thái Âm, Xương, Khúc, Lộc Tồn, Hóa Lộc trong đó thì cát, chủ người này thời kỳ đó tài vận vượng, hoặc có thêm nhân khẩu.

Nếu cung Mệnh hoặc cung Thiên Di lạc tại tứ bại chi địa (Tý, Ngọ, Mão, Dậu), chủ người này thích kết giao bạn bè và đi chơi, vận tốt thì được nhiều lần cơ hội xuất ngoại vui vẻ.

Nếu cung Mệnh lạc tại tứ mộ chi địa (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi), chủ người này lục thân hình khắc, nên ra ngoài phát triển. Trong đó, do Thìn là “Thiên La”, Tuất là “Địa Võng”, do đó nếu cung Mệnh lạc tại Thìn, Tuất, chủ người này một đời vất vả, phần lớn là chủ tha hương phát triển. Nếu như lại có Thái Dương, Thái Âm, Thiên Cơ, Thiên Lương nhập mệnh, thì người này hoàn cảnh một đời đầy biến động, thường xuyên công tác xa, hoặc có quan hệ hợp tác làm ăn với người vùng khác. Nếu đại hạn hoặc lưu niên nằm tại 4 cung vị này, thêm nữa trong cung có Liêm Trinh, Thất Sát, Dương, Đà, Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Hóa Kỵ, Thiên Thương, Thiên Sứ, chủ người này thời kỳ này không cát.

Nếu cung can của cung Mệnh dẫn phát chủ tinh cung Thiên Di Hóa Kỵ, chủ người này xuất ngoại hoặc đi xa hoặc lấy chồng, nếu hội thêm Thiên Mã càng ứng nghiệm.

Khi đoán mệnh, nếu trong cung Mệnh không có 28 Giáp cấp chủ tinh (14 chính tinh, lục cát tinh, lục hung tinh, Lộc Tồn, Thiên Mã), thì lấy đối cung suy đoán, nhưng theo nguyên tắc cát giảm còn nửa, hung tăng phần hung (tham khảo thêm “Cung Mệnh vô chủ tinh” chuyên luận). Nhưng phần lớn là chủ người này ích kỷ hẹp hòi, đối tiền tài quá xem trọng, nhẹ thì so đo từng tí, nặng thì luôn muốn lợi dụng người khác, không ngay thẳng phóng khoáng, do đó làm người khác có ác cảm.

Nếu trong cung đại hạn hoặc cung lưu niên có Bắc Đẩu tinh diệu (tức Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Vũ Khúc, Thiên Đồng, Liêm Trinh) tọa thủ, thì tác dụng cát hung của các tinh diệu khác trong đó đều tăng lên nhiều. Nếu trong cung đại hạn hoặc cung lưu niên có Nam Đẩu tinh diệu (tức Thiên Phủ, Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất Sát, Phá Quân) tọa thủ, thì tác dụng cát hung của các tinh diệu khác trong đó đều giảm bớt nhiều.

Nếu trong cung Mệnh có Văn Khúc, Hữu Bật, Thiên Việt, Hàm Trì, Thiên Diêu, Mộc Dục, Hóa Lộc, Không, Kiếp,Thiên Mã, càng nhiều thì càng đào hoa.

Phàm cung Mệnh tam phương tứ chính có Thái Dương, Thái Âm, cũng là tượng đào hoa.

Tử Vi Đẩu Số cung Mệnh tam phương tứ chính có Văn Xương (Văn Khúc), Hóa Khoa; hoặc trong cung Mệnh có Lộc, Quyền, Khoa, hoặc giả cung Thiên Di và trong các cung tam hợp có Lộc, Quyền, Khoa; hoặc trong cung Mệnh có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, cung Thiên Di và các cung tam hợp có Văn Xương, Văn Khúc hoặc Hóa Khoa, người này thường có trình độ đại học.

Nếu cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Tật Ách đều có sát tinh, chủ người này đa bệnh, tàn tật thậm chí chết yểu.

Cung Mệnh và cung Thiên Di có quan hệ: Cung Mệnh biểu thị hiện tại, bản địa, tự thân, còn cung Thiên Di biểu thị tương lai, xa nhà, cách nhìn của tha nhân đối với mình; nếu cung Mệnh tốt hơn cung Thiên Di, thì thích hợp tại bản địa phát triển, nếu ngược lại thì thích hợp xa nhà phát triển.

Nếu cung can của cung Mệnh dẫn phát Hóa Quyền nhập cung Tài Bạch, chủ người này quản lý kho tiền, hơn nữa có thể căn cứ thiên can đối ứng năm, tháng, ngày mà suy đoán ra thời gian cụ thể mà người này quản lý kho tiền.

Scroll to Top